Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

Âm mưu xuyên tạc ý nghĩa chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Philippines

 

Chuyến thăm cấp nhà nước của tổng thống Philippines Ferdinand Marcos tới Việt Nam từ 29-30/1/2024 thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận quốc tế không phải bởi vì đây là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của ông Marcos kể từ khi nhậm chức, mà còn xuất phát từ những căng thẳng đang ngày càng gia tăng giữa Philippines với Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông. Quan hệ giữa hai nước này đang xấu đi nghiêm trọng do những cáo buộc lẫn nhau sau hàng loạt sự việc xảy ra trong những tháng gần đây, nhất là sau khi Philippines quyết định tăng cường hợp tác quốc phòng với Mỹ, bao gồm cả việc cho phép Mỹ tiếp cận thêm căn cứ quân sự ở Philippines và tổ chức cuộc tuần tra chung với Mỹ ở Biển Đông.

Mới đây, trong Tuyên bố chung ngày 30/12/2023, các Bộ trưởng ngoại giao ASEAN đã bày tỏ quan ngại sâu sắc về việc “những diễn biến gần đây ở Biển Đông có thể phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực”. Có tin nói rằng phía Philippnes muốn Việt Nam, Indonesia, Malaysia là những nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông… ủng hộ họ mạnh mẽ hơn, không để nước này “lẻ loi, cô đơn ” trong việc đối phó với những hành động “bắt nạt nước nhỏ” của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Các thế lực cơ hội, chống phá Việt Nam tất nhiên không bỏ qua cơ hội này để xuyên tạc quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề Biển Đông, kích động dư luận, nhằm gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chia rẽ quan hệ đối ngoại của nước ta với Trung Quốc và các nước khác; gây cản trở đối với quá trình thực hiện đường lối ngoại giao của Việt Nam, làm cho nước ta rơi vào tình trạng đối đầu, mắc kẹt, bị cô lập với các nước trong khu vực.

Ngoài những luận điệu quen thuộc như “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông”, “Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước lớn, không có giải pháp kiên quyết để bảo vệ chủ quyền biển, đảo; bảo vệ ngư dân”, còn xuất hiện những lời lẽ xuyên tạc, kích động nhằm vào quan hệ Việt Nam – Philippines, đại loại như: “Phải chơi song phẳng như Philippines thì Tàu Khựa mới ngán, chứ hèn như Việt Nam thì nó khinh thường”,  “Việt Nam nên học theo cách ứng xử rõ ràng, mạnh mẽ của Philippines”… Nhân việc hai bên vừa ký kết “Bản ghi nhớ về hợp tác Biển giữa Cảnh sát biển Việt Nam và Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines”, một số kẻ đã vội kết luận rằng Trung Quốc nhất định sẽ trả đũa Việt Nam vì đã đứng về phía Philippines để đối đầu với họ trong vấn đề Biển Đông.

Cần khẳng định rằng, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, không phản ảnh đúng thực tế khách quan cũng như quan điểm của Việt Nam về việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Trên thực tế, mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông bị xâm phạm, Việt Nam ngay lập tức lên tiếng phản đối những hành động xâm phạm của nước ngoài, đồng thời thông qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao để lên án những hành vi vi phạm chủ quyền trên biển, đảo. Cùng với đó, Việt Nam luôn sẵn sàng về lực lượng, phương án, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Đây là những biện pháp thể hiện sự khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, nhưng rất kiên quyết về nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta để đạt được mục tiêu đề ra, chứ không phải là “nhu nhược, hèn nhát”, “làm ngơ về Biển Đông” như những rêu rao xuyên tạc của các thế lực phản động, cơ hội chính trị.

Quan điểm nhất quán của Việt Nam về vấn đề Biển Đông là “bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Việt Nam không tạo phe, không kết nhóm, không chọn bên, không liên minh quân sự, không đi với  nước này để chống lại nước kia. Điều này được thể hiện rõ trong nội dung cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos sáng ngày 30/1/2024. Liên quan đến vấn đề Biển Đông, hai bên cam kết duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn và tự do hàng hải và hàng không; kêu gọi các bên kiềm chế, không đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao, pháp lý, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Điều này thể hiện đúng quan điểm nhất quán của Việt Nam đối với vấn đề giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Tuyệt đối không có chuyện Việt Nam “âm mưu” đi với Philippines để chống lại bên thứ ba như MXH đồn thổi./.

Nâng cao hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn tà đạo Bà Cô Dợ

 

Sự xuất hiện của tổ chức “Bà Cô Dợ” gắn với hoạt động lập “Nhà nước riêng” cho thấy âm mưu, phương thức thủ đoạn hoạt động của các đối tượng là lợi dụng tôn giáo, dân tộc để xâm phạm ANQG, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.

Thời gian qua, trên địa bàn tỉnh Lào Cai, với “tham vọng” đẩy nhanh hoạt động phá hoại, đối tượng cầm đầu các tổ chức phản động vẫn ngày đêm lợi dụng các nhóm tà đạo như: “Bà Cô Dợ”, “Hội thánh Đức chúa trời”, “Dương Văn Mình”… gây xáo trộn trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của đồng bào các dân tộc và gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực nông thôn.

Từ nhận diện đến những giải pháp quan trọng của các lực lượng chức năng, chính quyền các cấp đã giúp người dân hiểu rõ hơn bản chất của việc lợi dụng tôn giáo, đức tin của các hoạt động mang màu sắc tôn giáo, trái với quy định của pháp luật.

Nhận diện bộ mặt thật của "Bà Cô Dợ"

Tà đạo Bà Cô Dợ do đối tượng Vừ Thị Dợ, SN 1977, là người Mông gốc Lào, quốc tịch Mỹ, hiện đang sinh sống tại thành phố Milwaukee, bang Wiscosin, Mỹ lập ra và làm hội trưởng từ cuối năm 2016. Vừ Thị Dợ đã đăng tải, tán phát nhiều video clip trên YouTube với nội dung con trai của Dợ, SN 2000, là chúa Giê Su, đến năm 2018 (đủ 18 tuổi) sẽ tái lâm làm vua của người Mông. Vừ Thị Dợ đã lập ra nhóm đạo có tên “Đức Chúa trời yêu thương chúng ta” hay còn gọi là Bà Cô Dợ và lôi kéo mọi người tin theo và tham gia nhóm đạo trên để tập hợp lực lượng, lập nhà nước riêng của người Mông. 

Trong quá trình giảng dạy, các đối tượng sử dụng các bài hát về chúa đã được cải biên trên nền nhạc trẻ; nội dung chủ yếu chúng tuyên truyền mê tín dị đoan, xuyên tạc Kinh thánh, đả kích các tôn giáo chính thống, chê bai phong tục truyền thống của người dân tộc Mông, tuyên truyền về ngày tận thế, việc vua Mông ra đời, kích động ly khai, tự trị, lôi kéo người theo Bà Cô Dợ tham gia thành lập “Nhà nước Mông”.


Lực lượng Công an và chính quyền xã Xuân Thượng vận động người dân chấp hành nghiêm pháp luật.

Hoạt động của tổ chức “Bà Cô Dợ” ngày càng tinh vi, nguy hiểm, bài bản hơn, có mối liên hệ chặt chẽ giữa các địa bàn ở tỉnh Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu… Các đối tượng cầm đầu, cốt cán ở nước ngoài ngày càng có âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi, bài bản hơn, thường xuyên liên lạc với số trong nước để nghiên cứu cách thức, điều kiện để tuyên truyền, lôi kéo người Mông tin theo và hỗ trợ kinh phí cho số đối tượng cầm đầu ở Lai Châu, Điện Biên để phát triển tín đồ, tiến tới thực hiện âm mưu tập hợp lực lượng thành lập “Nhà nước riêng”.

Sự xuất hiện của tổ chức “Bà Cô Dợ” gắn với hoạt động lập “Nhà nước riêng” cho thấy âm mưu, phương thức thủ đoạn hoạt động của các đối tượng là lợi dụng tôn giáo, dân tộc để xâm phạm ANQG, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.

Mang bình yên trở lại các bản làng

Lào Cai là một tỉnh vùng cao, biên giới hiện có 41 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có 31 cơ sở tín ngưỡng đã xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh và cấp Quốc gia; có 03 tôn giáo đang hoạt động (Phật giáo, Công giáo, Tin lành) với gần 54 nghìn tín đồ. Trình độ dân trí của một bộ phận đồng bào còn thấp, đời sống vật chất, tinh thần còn gặp nhiều khó khăn, phong tục tập quán còn nhiều hủ tục lạc hậu, dân cư sinh sống rải rác, phân bố không đồng đều....

Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng để hoạt động, tuyên truyền lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào các hoạt động nhằm xâm phạm ANQG. Thời kỳ cao điểm nhất, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 11 hộ với 55 khẩu theo “tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình”; có 19 hộ, 96 khẩu theo tổ chức “Yeshua” và có 7 hộ  với 47 nhân  khẩu  theo tổ chức “Bà Cô Dợ”.

Trước tình hình trên, Công an tỉnh Lào Cai đã chủ động báo cáo, tham mưu với Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo cấp ủy, chính quyền địa phương thường xuyên quan tâm, củng cố và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị cơ sở; tập trung lãnh, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự.

Triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của các tín đồ; thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững ANCT trong tình hình mới. Không để phát sinh điểm nóng để các thế lực thù địch, bọn tội phạm lợi dụng chống phá.

Đồng thời triển khai thực hiện có hiệu quả các kế hoạch nghiệp vụ, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn với các tổ chức trái phép này nhằm làm thất bại mọi âm mưu, ý đồ hoạt động tuyên truyền, lôi kéo, tập hợp lực lượng lập “Nhà nước riêng” trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

Song song với công tác nghiệp vụ, lực lượng an ninh xác định lấy tuyên truyền làm then chốt để ngăn chặn sự chỉ đạo hoạt động, củng cố niềm tin, tinh thần cho đồng bào ngay tại từng địa bàn quản lý. Công an tỉnh đã thành lập nhiều tổ công tác, phối hợp với Công an huyện các huyện có liên quan trực tiếp xuống cơ sở, thực hiện 3 bám (bám đơn vị, bám địa bàn, bám chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước), bốn cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng nói tiếng đồng bào) với nhân dân để tuyên truyền, vận động.

Liên tục phản bác những luận điệu sai trái của tổ chức “Bà Cô Dợ” bằng loa phát thanh, bản tin ngay tại thôn, bản. Vận động các chức sắc tôn giáo, người uy tín trong dòng họ, dòng tộc vận động đồng bào thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia hoạt động giữ gìn ANTT ở địa phương, ngăn chặn không để tổ chức “Bà Cô Dợ” tuyên truyền, lôi kéo phát triển người vào tổ chức.


Công an xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên trên đường tuần tra khu vực giáp ranh.

Tại một số địa bàn trọng điểm ảnh hưởng bởi tổ chức "Bà Cô Dợ" như xã Điện Quan, xã Xuân Thượng (huyện Bảo Yên), xã Nậm Mòn, xã Bảo Nhai (huyện Bắc Hà)...,  lực lượng an ninh cơ sở đã đẩy mạnh phát động phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ thông qua xây dựng các mô hình tự quản về ANTT, đặc biệt là mô hình: “thôn bản an toàn về ANTT, quần chúng nhân dân tự quản - tự phòng”, mô hình “Camera an ninh” ở Bản 4 Vành và 6 Vành, xã Xuân Thượng, huyện Bảo Yên đã phát huy được hiệu quả trong công tác nắm tình hình, kiềm tỏa được hoạt động của các đối tượng.

Bằng sự nỗ lực kiên trì, bền bỉ, tình cảm chân thành của các tổ công tác, 7 hộ  với 47 nhân  khẩu cuối cùng trên địa bàn huyện Bảo Yên, Bắc Hà đã từ bỏ tổ chức “Bà Cô Dợ”, quay trở lại phong tục tập quán truyền thống của dân tộc. Cùng với đó, sự quan tâm, tạo điều kiện của tỉnh Lào Cai cũng đã góp phần củng cố niềm tin của đồng bào theo tôn giáo vào vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, góp phần chung tay xây dựng tỉnh nhà ngày phát triển vững mạnh, ổn định quốc phòng và an ninh./.

Tống Huệ - Nguồn: CAND

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn

 

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn

     Tin giả đang nổi lên thành vấn nạn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn nạn tin giả diễn ra tràn lan, gây thiệt hại lớn trên nhiều lĩnh vực, phương diện, nhất là các thế lực thù địch sử dụng tin giả để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta.

Để khắc chế, đẩy lùi vấn nạn tin giả, với trách nhiệm rất cao, Việt Nam đã đề xuất thành lập đội phản ứng của ASEAN về tin giả và được các quan chức cao cấp ASEAN đồng thuận, ủng hộ. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, cách thức vận hành đội phản ứng nhanh để đi vào hoạt động hiệu quả vẫn còn là bài toán nan giải. Cùng với đó, việc phát huy vai trò của Trung tâm an ninh mạng quốc gia và Trung tâm phòng, chống tin giả tuy đạt kết quả bước đầu khả quan nhưng vẫn thụ động; chủ yếu là ứng phó, xử lý sự cố, sự việc khi có tình huống mà chưa đề cao đúng mức tính chủ động trong dự báo, ngăn chặn, đẩy lùi tin giả từ sớm, từ xa...

Cùng với đó, để khống chế, đẩy lùi tin giả thì công tác cung cấp, định hướng thông tin chính thống phải được xem là giải pháp trọng yếu, ưu tiên hàng đầu. Theo đó, cơ quan chức năng phải thực sự “đi trước, đón đầu” trong việc cung cấp thông tin chính xác, đồng bộ, rộng khắp; biến thông tin chính thống thành dòng chủ lưu trong đời sống thông tin xã hội để ngăn chặn, phòng ngừa, đẩy lùi tin giả. Khi xuất hiện tình huống tin giả, cơ quan chức năng cần có ngay các giải pháp quản lý, khống chế cả về số lượng, phạm vi, mức độ, cường độ lây lan của tin giả trên không gian mạng. Phải nỗ lực khắc chế, đẩy lùi tin giả từ khi chúng vừa manh nha hình thành, hay chí ít là khi chúng xuất hiện nhỏ lẻ, chứ không thể để tin giả lây lan rộng khắp, trở thành "điểm nóng" trên MXH rồi mới “theo đuôi”, đi tìm cách khắc phục, xử lý...

Vấn đề đáng bàn ở đây là vì sao những tin tức giả mạo, bịa đặt trắng trợn vẫn có thể xuất hiện kéo dài trên MXH, gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng chưa có cơ quan chức năng kịp thời đứng ra nhận trách nhiệm hoặc chủ động đấu tranh, cung cấp thông tin chính thống nhằm điều chỉnh, uốn nắn, định hướng dư luận ở những thời điểm nhạy cảm? Phải chăng vẫn còn vướng mắc nào đó về mặt cơ chế, hay là do chi phối bởi căn bệnh sợ trách nhiệm? Đây là vấn đề cần nhìn nhận thấu đáo để nghiêm khắc rút kinh nghiệm và có giải pháp khắc phục.

Trên tinh thần đó, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống, đẩy lùi vấn nạn tin giả, Việt Nam cần có những quy định chặt chẽ hơn trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông; hoàn thiện quy định, quy chế phát ngôn định hướng dư luận; quy rõ trách nhiệm đối với người đứng đầu và cơ quan chức năng trong việc quản lý, đấu tranh với vấn nạn tin giả. Đó là những vấn đề cần lưu tâm, ưu tiên thực hiện.

Một giải pháp quan trọng nữa là cần đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan quản lý truyền thông Việt Nam và các quốc gia trên thế giới trong việc phát hiện, khống chế, đẩy lùi tin giả; tăng cường phối hợp giữa các tổ chức nghiên cứu độc lập, tổ chức xác minh và nhà cung cấp MXH để đối phó với vấn nạn tin giả trong khu vực và trên thế giới; tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cấp, ngành, cơ quan, địa phương trong cả nước nhằm chủ động ngăn chặn, phát hiện, đấu tranh và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi tán phát, ủng hộ, cổ xúy tin giả nhằm những mục đích tiêu cực, phản động, vi phạm pháp luật.

Chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng

 

Chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng

     Trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” luôn là nhiệm vụ cấp bách của cả hệ thống chính trị. Trước những âm mưu, thủ đoạn vô cùng nguy hiểm của thế lực thù địch trên không gian mạng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn chủ động, kiên quyết trong nhận diện, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”.

Để nâng cao chất lượng đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng trước hết cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tinh thần cảnh giác, ý chí, quyết tâm cho cán bộ, đảng viên. Phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, môi trường internet trong sạch là chính. Cùng với đó, phải huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, của mọi cán bộ, đảng viên; khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cách mạng, ý thức tự giác, hành động tích cực trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, phê phán những tư tưởng lệch lạc, mơ hồ, dao động; lên án những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái trên internet, phải thể hiện là một người sử dụng mạng xã hội thông minh, dứt khoát không ấn thích, không bình luận, không chia sẻ những thông tin không rõ nguồn gốc, không chính thống, không xác định là đúng hay sai…. Đồng thời, khi tham gia mạng xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên phải là một tuyên truyền viên đắc lực, thể hiện rõ quan điểm, thái độ đúng đắn, có những bình luận, chia sẻ, phân tích, tuyên truyền những thông tin chính thống, phản bác những thông tin, bài viết, hình ảnh, video sai lệch, phản động.. để quần chúng nhân dân làm theo. 

Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, địa phương phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, góp phần xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” và đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự gương mẫu, trước hết là trong cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng.

Cảnh giác với âm mưu xúi giục, kích động thanh niên

 

Cảnh giác với âm mưu xúi giục, kích động thanh niên

 

Trong tình hình hiện nay, khi âm mưu, thủ đoạn chống phá đất nước nhằm vào các tầng lớp là người trung niên, cao tuổi bị thất bại, các thế lực thù, phản động, bất mãn gia tăng chống phá với các luận điệu, như: “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên”; "nhiệm vụ của thanh niên là phải đứng lên đấu tranh chống độc tài, đòi tự do, dân chủ”...

Có thể thấy, âm mưu lợi dụng “tự do, dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề không mới. Tuy nhiên, dịp này, các thế lực phản động tập trung hướng vào kêu gọi, kích động đối tượng thanh thiếu niên càng cho thấy dã tâm và sự nham hiểm của chúng. Nếu những người trẻ tuổi thiếu hiểu biết và bản lĩnh sẽ dẫn tới hoài nghi, dao động, phai nhạt lý tưởng, bị kẻ xấu kích động, lôi kéo.

Thực tiễn đã chứng minh, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, chăm lo cho lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước luôn đặt niềm tin và đánh giá cao vai trò, vị trí, sứ mệnh to lớn của thanh, thiếu niên; xác định thanhthiếu niên là rường cột của nước nhà, Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị tin cậy của Đảng. Cả hệ thống chính trị quan tâm, chăm lo cho thanh niên và tổ chức đoàn, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện cho thanh niên có đại diện của mình trong các cơ quan Nhà nước, đồng thời ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ và lắng nghe ý kiến của thanh niên... Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ, thử thách, cổ vũ, động viên thanh niên và các tổ chức của thanh niên thực hiện những chương trình, dự án, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... tạo thuận lợi để thanh niên trưởng thành, đảm trách những vị trí ngày càng quan trọng trong hệ thống chính trị.

Thực tế trên là rất rõ ràng và không ai có thể phủ nhận. Qua đó càng cho thấy, luận điệu quy chụp “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên” là hoàn toàn sai trái. Âm mưu xúi giục, kích động thanh niên "đứng lên đòi tự do, dân chủ, chống độc tài” của các thế lực thù địch là hết sức phản động, thâm độc. Do vậy, mỗi người dân nói chung, thanh niên nói riêng cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo để không rơi vào cái bẫy nham hiểm của những kẻ dã tâm chống phá đất nước, luôn tìm mọi cách "chọc gậy bánh xe", gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ nước ta.

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn

 

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn

     Tin giả đang nổi lên thành vấn nạn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn nạn tin giả diễn ra tràn lan, gây thiệt hại lớn trên nhiều lĩnh vực, phương diện, nhất là các thế lực thù địch sử dụng tin giả để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta.

Để khắc chế, đẩy lùi vấn nạn tin giả, với trách nhiệm rất cao, Việt Nam đã đề xuất thành lập đội phản ứng của ASEAN về tin giả và được các quan chức cao cấp ASEAN đồng thuận, ủng hộ. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, cách thức vận hành đội phản ứng nhanh để đi vào hoạt động hiệu quả vẫn còn là bài toán nan giải. Cùng với đó, việc phát huy vai trò của Trung tâm an ninh mạng quốc gia và Trung tâm phòng, chống tin giả tuy đạt kết quả bước đầu khả quan nhưng vẫn thụ động; chủ yếu là ứng phó, xử lý sự cố, sự việc khi có tình huống mà chưa đề cao đúng mức tính chủ động trong dự báo, ngăn chặn, đẩy lùi tin giả từ sớm, từ xa...

Cùng với đó, để khống chế, đẩy lùi tin giả thì công tác cung cấp, định hướng thông tin chính thống phải được xem là giải pháp trọng yếu, ưu tiên hàng đầu. Theo đó, cơ quan chức năng phải thực sự “đi trước, đón đầu” trong việc cung cấp thông tin chính xác, đồng bộ, rộng khắp; biến thông tin chính thống thành dòng chủ lưu trong đời sống thông tin xã hội để ngăn chặn, phòng ngừa, đẩy lùi tin giả. Khi xuất hiện tình huống tin giả, cơ quan chức năng cần có ngay các giải pháp quản lý, khống chế cả về số lượng, phạm vi, mức độ, cường độ lây lan của tin giả trên không gian mạng. Phải nỗ lực khắc chế, đẩy lùi tin giả từ khi chúng vừa manh nha hình thành, hay chí ít là khi chúng xuất hiện nhỏ lẻ, chứ không thể để tin giả lây lan rộng khắp, trở thành "điểm nóng" trên MXH rồi mới “theo đuôi”, đi tìm cách khắc phục, xử lý...

Vấn đề đáng bàn ở đây là vì sao những tin tức giả mạo, bịa đặt trắng trợn vẫn có thể xuất hiện kéo dài trên MXH, gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng chưa có cơ quan chức năng kịp thời đứng ra nhận trách nhiệm hoặc chủ động đấu tranh, cung cấp thông tin chính thống nhằm điều chỉnh, uốn nắn, định hướng dư luận ở những thời điểm nhạy cảm? Phải chăng vẫn còn vướng mắc nào đó về mặt cơ chế, hay là do chi phối bởi căn bệnh sợ trách nhiệm? Đây là vấn đề cần nhìn nhận thấu đáo để nghiêm khắc rút kinh nghiệm và có giải pháp khắc phục.

Trên tinh thần đó, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống, đẩy lùi vấn nạn tin giả, Việt Nam cần có những quy định chặt chẽ hơn trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông; hoàn thiện quy định, quy chế phát ngôn định hướng dư luận; quy rõ trách nhiệm đối với người đứng đầu và cơ quan chức năng trong việc quản lý, đấu tranh với vấn nạn tin giả. Đó là những vấn đề cần lưu tâm, ưu tiên thực hiện.

Một giải pháp quan trọng nữa là cần đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan quản lý truyền thông Việt Nam và các quốc gia trên thế giới trong việc phát hiện, khống chế, đẩy lùi tin giả; tăng cường phối hợp giữa các tổ chức nghiên cứu độc lập, tổ chức xác minh và nhà cung cấp MXH để đối phó với vấn nạn tin giả trong khu vực và trên thế giới; tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cấp, ngành, cơ quan, địa phương trong cả nước nhằm chủ động ngăn chặn, phát hiện, đấu tranh và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi tán phát, ủng hộ, cổ xúy tin giả nhằm những mục đích tiêu cực, phản động, vi phạm pháp luật.

Chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng

 

Chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng

     Trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” luôn là nhiệm vụ cấp bách của cả hệ thống chính trị. Trước những âm mưu, thủ đoạn vô cùng nguy hiểm của thế lực thù địch trên không gian mạng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn chủ động, kiên quyết trong nhận diện, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”.

Để nâng cao chất lượng đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng trước hết cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tinh thần cảnh giác, ý chí, quyết tâm cho cán bộ, đảng viên. Phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, môi trường internet trong sạch là chính. Cùng với đó, phải huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, của mọi cán bộ, đảng viên; khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cách mạng, ý thức tự giác, hành động tích cực trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, phê phán những tư tưởng lệch lạc, mơ hồ, dao động; lên án những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái trên internet, phải thể hiện là một người sử dụng mạng xã hội thông minh, dứt khoát không ấn thích, không bình luận, không chia sẻ những thông tin không rõ nguồn gốc, không chính thống, không xác định là đúng hay sai…. Đồng thời, khi tham gia mạng xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên phải là một tuyên truyền viên đắc lực, thể hiện rõ quan điểm, thái độ đúng đắn, có những bình luận, chia sẻ, phân tích, tuyên truyền những thông tin chính thống, phản bác những thông tin, bài viết, hình ảnh, video sai lệch, phản động.. để quần chúng nhân dân làm theo. 

Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, địa phương phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, góp phần xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” và đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự gương mẫu, trước hết là trong cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng.

Không thể phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm các quyền dân sự và chính trị

 

Không thể phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm các quyền dân sự và chính trị

     Trong những năm qua, việc triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp về đảm bảo các quyền dân sự và chính trị cho người dân với nhiều thành tựu đạt được là nỗ lực rất lớn của Việt Nam. Qua đó, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là thực tiễn sinh động, không ai có thể phủ nhận.

Trước hết, Việt Nam luôn nỗ lực xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền dân sự và chính trị cho người dân; được hiến định đầy đủ trong Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”1. Đồng thời, quy định rõ: “mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”2. Việc cụ thể hóa Hiến pháp, cũng như các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên bằng các bộ luật, luật và các văn bản quy phạm pháp luật cũng luôn được Nhà nước ta quan tâm. Chỉ riêng từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2022, Quốc hội Việt Nam đã thông qua gần 60 luật, nghị quyết có liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Song song với đó, Việt Nam không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước để bảo đảm các quyền dân sự, chính trị và khuôn khổ pháp luật về xử lý các hành vi xâm phạm các quyền này, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Quốc phòng, Luật Công an nhân dân, Luật Xử lý vi phạm hành chính, v.v. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức phản biện xã hội cũng được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, v.v. Đồng thời, ban hành, sửa đổi, bổ sung luật, quy định xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực bảo đảm các quyền dân sự và chính trị của người dân Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam tích cực hoàn thiện các khuôn khổ pháp luật khác, tạo điều kiện thuận lợi nhất, bảo đảm cho cá nhân, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương được thụ hưởng các quyền dân sự và chính trị, được tiếp cận thông tin, nâng cao nhận thức và có điều kiện thuận lợi trong thực hiện các quyền này, như: Luật Trợ giúp pháp lý; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, v.v.

Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về các quyền dân sự và chính trị nói riêng được Nhà nước Việt Nam xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, được tiến hành thường xuyên, liên tục, đạt nhiều kết quả quan trọng. Theo đó, các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác này bằng nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, hiệu quả. Chính sách pháp luật được truyền tải đến người dân bằng nhiều kênh khác nhau, với sự phong phú, đa dạng về hình thức, phương pháp, cách thức tiến hành; từ các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm chuyên sâu, đến các hình thức phổ thông, tiếp cận mọi người dân trên mọi vùng miền của đất nước. Công tác truyền thông chính sách được đẩy mạnh với các chuyên mục chuyên sâu về phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Trung ương và địa phương, được thể hiện bằng tiếng phổ thông cùng 13 tiếng dân tộc thiểu số và tiếng nước ngoài. Các cơ quan báo chí tích cực phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể địa phương xây dựng và thực hiện các chuyên mục pháp luật ngày càng chặt chẽ, sáng tạo, hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội bằng fanpage, zalo, sử dụng nhắn tin qua các mạng di động để tăng tính tương tác, hấp dẫn cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được đẩy mạnh thực hiện rộng rãi. Đồng thời, chú trọng đăng tải các văn bản pháp luật, nhất là những văn bản pháp luật mới ban hành, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật lên cổng, trang thông tin điện tử của bộ, cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương. Giai đoạn 2013 - 2023, các cấp, các ngành đã tuyên truyền, phổ biến pháp luật trực tiếp cho hơn 9.429.000 lượt người dân; biên soạn và cấp phát miễn phí gần 512.000.000 tài liệu pháp luật, nhiều tài liệu được dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài. Qua đó, góp phần quan trọng trong nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền dân sự, chính trị ở nước ta.

Ba là, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thi hành kịp thời, đầy đủ, nhất quán và nghiêm minh pháp luật về bảo đảm các quyền dân sự và chính trị của người dân. Tiêu biểu như: quyền bầu cử và ứng cử của công dân được quy định cụ thể, được bảo đảm thực thi nghiêm minh, không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV (nhiệm kỳ 2021 - 2026), tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu đạt 99,6%, cao nhất từ trước đến nay và có thể nói khó có quốc gia nào khác sánh được. Điều đó cho thấy, người dân ngày càng ý thức được quyền của mình và quyền chính trị đó ngày càng được Nhà nước ta đảm bảo tốt hơn.

Các thế lực thù địch thường xuyên tạc, vu khống Việt Nam “bóp ngặt” tự do ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, đó chỉ là những xảo ngôn thiếu căn cứ. Bởi lẽ, không có một quốc gia nào “bóp ngặt” tự do ngôn luận, báo chí mà lại có số lượng các cơ quan báo chí đông đảo, với đầy đủ các loại hình và phát triển mạnh mẽ như vậy. Lại càng không thể là một quốc gia đứng tốp đầu về tốc độ phát triển internet và người dùng mạng xã hội như Việt Nam. Hiện nay, nước ta có 797 cơ quan báo chí, gồm 127 báo và 670 tạp chí; đến tháng 01/2023, Việt Nam có 72,1 triệu người dùng Internet, tương đương 73,2% dân số; có hơn 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số và khoảng 161,6 triệu kết nối di động đang hoạt động, tương đương 164% dân số. Các cuộc tranh luận, chất vấn, phản biện về chủ trương, chính sách không chỉ diễn ra tại nghị trường Quốc hội, mà còn diễn ra sôi nổi tại các cuộc tọa đàm, hội thảo, bàn luận,… với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị, xã hội và người dân. Đây là minh chứng khẳng định quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam luôn được bảo đảm.

Không thể xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng

 

Không thể xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng

 

Hiện nay, trước sự phát triển của vũ khí, phương tiện, hình thái chiến tranh, có quan điểm cho rằng, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là không phù hợp. Đây là nhận thức, quan điểm sai lầm, thiếu cơ sở khoa học, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Trước hết chúng ta phải khẳng định: Chiến tranh nhân dân là đường lối duy nhất đúng để phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nếu buộc phải tiến hành chiến tranh. Chiến tranh nhân dân - một trong những sáng tạo về nghệ thuật tiến hành chiến tranh của Việt Nam là đường lối kế thừa xuất sắc truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, khi phải chống lại những đội quân xâm lược lớn mạnh hơn ta nhiều lần, tổ tiên ta đã vận hành thắng lợi nghệ thuật “lấy yếu chống mạnh, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, dựa trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc. Thời bình thực hiện giữ nước từ khi nước chưa nguy, với các chính sách “ngụ binh ư nông”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”, dựa vào dân để giữ nước. Thời chiến đánh giặc bằng sức mạnh của toàn dân tộc “chúng chí thành thành, cử quốc nghênh địch”, cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc. Dựa vào dân làm kế “vườn không, nhà trống”, đánh giặc bằng mọi lực lượng, mọi loại vũ khí, ở mọi lúc, mọi nơi,… để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, viết nên truyền thống vẻ vang, đánh giặc giữ nước bằng sức mạnh của toàn dân tộc. Thời nào cũng vậy, khi đã phát huy được cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, thì không một thế lực nào khuất phục được dân tộc ta - đó là thực tế mà không thế lực nào có thể phủ nhận.

Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đường lối chiến tranh nhân dân vẫn là đường lối cơ bản, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong tổ chức, chuẩn bị và sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra). Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay có sự phát triển, thay đổi rất khác trước, dự báo đối tượng tác chiến sẽ sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao, vũ khí thông minh cùng những phương thức tác chiến mới. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng cao, nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, ly khai, giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong tình hình ấy, đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân trong đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn còn nguyên giá trị. Mọi luận điểm phủ nhận, xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân chỉ là mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch. Trên thực tế, chúng ta chưa bao giờ coi nhẹ vũ khí công nghệ cao; tuy nhiên, vũ khí công nghệ cao không phải là “vũ khí vạn năng”, nó cũng có những hạn chế, bởi nó được chế tạo theo hệ thống, vận hành theo hành trình, quy luật, một số loại còn chịu ảnh hưởng rất lớn của địa hình, thời tiết, một số loại còn bay thấp, tốc độ không cao, v.v. Nếu có các giải pháp hợp lý vẫn có thể hạn chế hiệu quả của vũ khí công nghệ cao, kể cả các giải pháp thô sơ, truyền thống. Nhưng vũ khí dù có hiện đại đến đâu vẫn do con người sử dụng, vì thế không thể coi nhẹ yếu tố con người, mà đường lối chiến tranh nhân dân là đường lối phát huy cao độ yếu tố con người, với phẩm chất kiên cường, bất khuất, có ý chí, quyết tâm cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chiến đấu vì quê hương, đất nước. Vũ khí công nghệ cao có thể phá hủy được một số mục tiêu cố định, sát thương được một bộ phận lực lượng vũ trang và nhân dân ta, nhưng không thể đánh được tất cả mọi nơi trên đất nước Việt Nam và càng không thể là vũ khí bất khả xâm phạm; còn Đảng, còn Quân đội, còn Nhân dân, chúng ta còn chiến thắng. Đó chính là chiến tranh nhân dân.

Lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân là lực lượng toàn dân, có mặt ở khắp mọi nơi, tạo thế trận rộng khắp, có thể bắn hạ tên lửa hành trình, máy bay không người lái, máy bay bay thấp, có thể đánh hiểm vào các khu vực bố trí vũ khí công nghệ cao của địch trên các môi trường, địa hình,... bằng các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ. Trong tương lai, nếu buộc phải tiến hành chiến tranh, chúng ta vẫn phải kiên trì đường lối chiến tranh nhân dân, nhưng có sự phát triển ở trình độ cao và vẫn phải đánh với đối phương có vũ khí, trang bị hiện đại hơn ta, thậm chí hiện đại hơn ta rất nhiều lần. Chỉ có chiến tranh nhân dân mới phát huy được cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc đánh thắng quân xâm lược, kể cả chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao và chỉ có chiến tranh nhân dân mới có nhiều giải pháp hạn chế vũ khí công nghệ cao. Đây cũng là câu trả lời đanh thép để bác bỏ luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.

Giải pháp bảo vệ Tổ quốc bằng nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới

 

Giải pháp bảo vệ Tổ quốc bằng nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới

     Bảo vệ Tổ quốc bằng nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới, đánh địch bằng mưu kế, thắng địch bằng thế thời, đó là thượng sách giữ nước của dân tộc. Một cuộc chiến tranh nhân dân đích thực thì không một thế lực nào có thể đánh bại được. Để tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân đích thực, trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao, cần có các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ xung đột và chiến tranh, chuẩn bị mọi mặt để tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Một là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc, có sức mạnh tổng hợp cao, có sức đề kháng mạnh mẽ và có khả năng ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức đúng đắn cho toàn dân về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chuẩn bị thế trận chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới ngay từ thời bình. Tập trung giáo dục để mọi người có nhận thức đúng về tình hình các mặt, về đối tượng, đối tác, dự kiến các tình huống quốc phòng, an ninh, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hết sức chú trọng bồi dưỡng để có nhận thức đúng về vũ khí công nghệ cao, khắc phục tư tưởng sợ sệt, lo ngại, thiếu niềm tin vào khả năng sức mạnh của đất nước. Từ đó, có quyết tâm cao trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, coi trọng xây dựng hệ thống chính trị, “thế trận lòng dân”, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng các thành phần của thế trận quân sự, gắn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân không ngừng hiện đại là cơ sở chủ yếu để tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc thắng lợi. Về lực lượng, là cơ sở để mở rộng lực lượng, đáp ứng yêu cầu chiến tranh. Về tiềm lực, là cơ sở quan trọng huy động các khả năng tiềm tàng của đất nước phục vụ nhu cầu của chiến tranh. Về thế trận, là cơ sở chủ yếu để chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Xây dựng Quân đội nhân dân hiện đại phải toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trang bị kỹ thuật, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, huấn luyện và bảo đảm. Coi trọng nâng cao trình độ năng lực, tổ chức, trang bị, vũ khí và nghệ thuật tác chiến; trong đó, hiện đại hóa về vũ khí, trang bị có vai trò rất quan trọng trong chiến tranh sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao. Chúng ta luôn khẳng định con người là nhân tố quyết định nhưng cũng với những con người ấy, nếu có vũ khí, trang bị tốt hơn thì hiệu suất tác chiến sẽ cao hơn. Vì vậy, cùng với xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cần kết hợp chặt chẽ giữa cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị hiện có với sản xuất, mua sắm trang bị hiện đại cho Quân đội, tập trung trang bị các loại vũ khí chiến lược có tầm đánh xa, uy lực lớn, độ chính xác cao, nâng cao khả năng răn đe từ thời bình và đánh thắng nếu buộc phải tiến hành chiến tranh. Đầu tư hơn nữa xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, bảo vệ từng địa bàn, địa giới hành chính, phát huy cao nhất sức mạnh của nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chỗ dựa vững chắc cho toàn dân đánh giặc.

Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học quân sự, nhất là nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân. Coi trọng công tác nghiên cứu dự báo, nhất là dự báo chiến lược, dự báo các thách thức, tình huống quốc phòng, an ninh, hình thái chiến tranh có thể xảy ra. Trong nghiên cứu về đối tượng tác chiến, chú trọng đối tượng có thể tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn, không coi nhẹ đối tượng xâm lấn biên giới, biển, đảo. Nghiên cứu về chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao và các giải pháp phòng, chống vũ khí công nghệ cao. Nghiên cứu phát triển lý luận tác chiến chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhất là các loại hình tác chiến mới xuất hiện: tác chiến bảo vệ biển, đảo; tác chiến phòng thủ; tác chiến đánh địch tiến công hỏa lực; tác chiến tiến công tổng hợp; tác chiến không gian mạng; tác chiến điện tử,… kế thừa kinh nghiệm từ chiến tranh giải phóng, nhưng không sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, các nghiên cứu phải phù hợp các điều kiện tác chiến mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Không thể phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm các quyền dân sự và chính trị

 

Không thể phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm các quyền dân sự và chính trị

     Trong những năm qua, việc triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp về đảm bảo các quyền dân sự và chính trị cho người dân với nhiều thành tựu đạt được là nỗ lực rất lớn của Việt Nam. Qua đó, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là thực tiễn sinh động, không ai có thể phủ nhận.

Trước hết, Việt Nam luôn nỗ lực xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền dân sự và chính trị cho người dân; được hiến định đầy đủ trong Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”1. Đồng thời, quy định rõ: “mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”2. Việc cụ thể hóa Hiến pháp, cũng như các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên bằng các bộ luật, luật và các văn bản quy phạm pháp luật cũng luôn được Nhà nước ta quan tâm. Chỉ riêng từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2022, Quốc hội Việt Nam đã thông qua gần 60 luật, nghị quyết có liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Song song với đó, Việt Nam không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước để bảo đảm các quyền dân sự, chính trị và khuôn khổ pháp luật về xử lý các hành vi xâm phạm các quyền này, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Quốc phòng, Luật Công an nhân dân, Luật Xử lý vi phạm hành chính, v.v. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức phản biện xã hội cũng được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, v.v. Đồng thời, ban hành, sửa đổi, bổ sung luật, quy định xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực bảo đảm các quyền dân sự và chính trị của người dân Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam tích cực hoàn thiện các khuôn khổ pháp luật khác, tạo điều kiện thuận lợi nhất, bảo đảm cho cá nhân, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương được thụ hưởng các quyền dân sự và chính trị, được tiếp cận thông tin, nâng cao nhận thức và có điều kiện thuận lợi trong thực hiện các quyền này, như: Luật Trợ giúp pháp lý; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, v.v.

Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về các quyền dân sự và chính trị nói riêng được Nhà nước Việt Nam xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, được tiến hành thường xuyên, liên tục, đạt nhiều kết quả quan trọng. Theo đó, các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác này bằng nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, hiệu quả. Chính sách pháp luật được truyền tải đến người dân bằng nhiều kênh khác nhau, với sự phong phú, đa dạng về hình thức, phương pháp, cách thức tiến hành; từ các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm chuyên sâu, đến các hình thức phổ thông, tiếp cận mọi người dân trên mọi vùng miền của đất nước. Công tác truyền thông chính sách được đẩy mạnh với các chuyên mục chuyên sâu về phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Trung ương và địa phương, được thể hiện bằng tiếng phổ thông cùng 13 tiếng dân tộc thiểu số và tiếng nước ngoài. Các cơ quan báo chí tích cực phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể địa phương xây dựng và thực hiện các chuyên mục pháp luật ngày càng chặt chẽ, sáng tạo, hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội bằng fanpage, zalo, sử dụng nhắn tin qua các mạng di động để tăng tính tương tác, hấp dẫn cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được đẩy mạnh thực hiện rộng rãi. Đồng thời, chú trọng đăng tải các văn bản pháp luật, nhất là những văn bản pháp luật mới ban hành, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật lên cổng, trang thông tin điện tử của bộ, cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương. Giai đoạn 2013 - 2023, các cấp, các ngành đã tuyên truyền, phổ biến pháp luật trực tiếp cho hơn 9.429.000 lượt người dân; biên soạn và cấp phát miễn phí gần 512.000.000 tài liệu pháp luật, nhiều tài liệu được dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài. Qua đó, góp phần quan trọng trong nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền dân sự, chính trị ở nước ta.

Ba là, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thi hành kịp thời, đầy đủ, nhất quán và nghiêm minh pháp luật về bảo đảm các quyền dân sự và chính trị của người dân. Tiêu biểu như: quyền bầu cử và ứng cử của công dân được quy định cụ thể, được bảo đảm thực thi nghiêm minh, không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV (nhiệm kỳ 2021 - 2026), tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu đạt 99,6%, cao nhất từ trước đến nay và có thể nói khó có quốc gia nào khác sánh được. Điều đó cho thấy, người dân ngày càng ý thức được quyền của mình và quyền chính trị đó ngày càng được Nhà nước ta đảm bảo tốt hơn.

Các thế lực thù địch thường xuyên tạc, vu khống Việt Nam “bóp ngặt” tự do ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, đó chỉ là những xảo ngôn thiếu căn cứ. Bởi lẽ, không có một quốc gia nào “bóp ngặt” tự do ngôn luận, báo chí mà lại có số lượng các cơ quan báo chí đông đảo, với đầy đủ các loại hình và phát triển mạnh mẽ như vậy. Lại càng không thể là một quốc gia đứng tốp đầu về tốc độ phát triển internet và người dùng mạng xã hội như Việt Nam. Hiện nay, nước ta có 797 cơ quan báo chí, gồm 127 báo và 670 tạp chí; đến tháng 01/2023, Việt Nam có 72,1 triệu người dùng Internet, tương đương 73,2% dân số; có hơn 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số và khoảng 161,6 triệu kết nối di động đang hoạt động, tương đương 164% dân số. Các cuộc tranh luận, chất vấn, phản biện về chủ trương, chính sách không chỉ diễn ra tại nghị trường Quốc hội, mà còn diễn ra sôi nổi tại các cuộc tọa đàm, hội thảo, bàn luận,… với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị, xã hội và người dân. Đây là minh chứng khẳng định quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam luôn được bảo đảm.

Nâng cao trách nhiệm người dùng trong tham gia mạng xã hội

 

Nâng cao trách nhiệm người dùng trong tham gia mạng xã hội

 

Hiện nay, rất nhiều người nghĩ mạng xã hội (MXH) là nơi để giải trí, giao lưu, chia sẻ những cảm xúc cá nhân hay để bày tỏ quan điểm của mình với các hoạt động diễn ra hàng ngày trên MXH. Vì là của cá nhân nên nó không trực tiếp tác động đến người khác hay tới cộng đồng. Đây là một quan điểm rất sai lầm. Bởi, một khi thông tin đã đưa lên MXH, ít nhiều nó cũng tạo ra hiệu ứng. Nếu thông tin được chia sẻ mang tính tích cực, việc loa toả đó sẽ mang lại lợi ích cho cộng đồng, ngược lại nếu thông tin mang tính tiêu cực, sai lệch thì hệ luỵ của nó gây ra là một xã hội hoang mang, mất phương hướng, mất lòng tin…

Chẳng hạn mới đây, nhiều tỉnh thành trên cả nước, thậm chí là ở thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh đã phải ra văn bản chính thức hoặc “lên tiếng” trước việc người dân ùn ùn đi đổi giấy phép lái xe hạng A1 từ bảng giấy sang thẻ PET (thẻ nhựa), gây quá tải tại các điểm tiếp nhận. Đây là hệ luỵ của việc đưa thông tin sai lệch từ những người tham gia mạng xã hội. Bởi trước đó, nhiều tài khoản trên mạng xã hội Facebook, TikTok… thông tin rằng sau ngày 31/12/2023, những ai chưa đổi giấy phép lái xe hạng A1 từ thẻ giấy sang thẻ nhựa sẽ phải thi lại.

Sự thật là trước đó, Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ triển khai lấy ý kiến người dân, trong đó có nội dung đề xuất đổi toàn bộ giấy phép lái xe mô tô bằng vật liệu giấy sang vật liệu nhựa nhằm thực hiện tốt hơn việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, trong đó có tích hợp giấy phép lái xe. Tuy nhiên, những người đưa thông tin lên MXH đã không thực hiện việc đưa thông tin rõ ràng mà tự “cắt cúp” để đưa theo chủ ý dẫn dắt dư luận của mình.

Hay trước đó, khi Quốc hội thông qua Luật Căn cước (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024) để thay thế cho Luật Căn cước công dân, đồng thời đổi tên thẻ Căn cước công dân thành thẻ Căn cước, rất nhiều tài khoản MXH đưa hoặc còm theo hướng việc làm này là “hành dân”, gây tốn kém và lãng phí tiền thuế của dân… Trong khi việc thay đổi này nhằm giúp công tác quản lý nhà nước khoa học hơn, phục vụ công cuộc chuyển đổi số, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tham gia các hoạt động xã hội, giao dịch về hành chính, dân sự. Chính việc chia sẻ thông tin một chiều cùng đánh giá có chủ ý này đã khiến cộng đồng MXH có nhiều bình luận tiêu cực.

Như vậy, với tính chất liên kết, chia sẻ rộng rãi thông tin, MXH đã không còn là những cảm xúc, suy nghĩ của mỗi cá nhân mà đã trở thành tâm trạng, cảm xúc chung của nhiều người và ở góc độ nào đó, sự vận động của MXH đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của cả cộng đồng. Đồng thời, với nhiều người dùng MXH, tâm lý thường là thích đọc những thông tin nóng, mới, mang tính hấp dẫn… nhưng ít khi thực hiện việc kiểm chứng, xem nguồn gốc chúng đến từ đâu, có chính xác không. Chính điều này đã khiến một số đối tượng lợi dụng đăng tải, bình luận, chia sẻ nội dung sai sự thật, độc hại, không phù hợp về chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục; thậm chí là những thông tin xuyên tạc, gây hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, gây mâu thuẫn trong xã hội…

Pháp luật Việt Nam quy định, mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận và các quyền tự do dân chủ khác được pháp luật đảm bảo. Tuy nhiên, việc phát ngôn hay bình luận, đăng tải, chia sẻ thông tin trên mạng xã hội và các hình thức khác phải tuân thủ theo quy định của pháp luật, vì vậy nhất thiết phải bảo đảm người dùng MXH phải có trách nhiệm với các thông tin được đưa lên trên không gian mạng./.

Không thể xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng

 

Không thể xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng

 

Hiện nay, trước sự phát triển của vũ khí, phương tiện, hình thái chiến tranh, có quan điểm cho rằng, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là không phù hợp. Đây là nhận thức, quan điểm sai lầm, thiếu cơ sở khoa học, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Trước hết chúng ta phải khẳng định: Chiến tranh nhân dân là đường lối duy nhất đúng để phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nếu buộc phải tiến hành chiến tranh. Chiến tranh nhân dân - một trong những sáng tạo về nghệ thuật tiến hành chiến tranh của Việt Nam là đường lối kế thừa xuất sắc truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, khi phải chống lại những đội quân xâm lược lớn mạnh hơn ta nhiều lần, tổ tiên ta đã vận hành thắng lợi nghệ thuật “lấy yếu chống mạnh, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, dựa trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc. Thời bình thực hiện giữ nước từ khi nước chưa nguy, với các chính sách “ngụ binh ư nông”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”, dựa vào dân để giữ nước. Thời chiến đánh giặc bằng sức mạnh của toàn dân tộc “chúng chí thành thành, cử quốc nghênh địch”, cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc. Dựa vào dân làm kế “vườn không, nhà trống”, đánh giặc bằng mọi lực lượng, mọi loại vũ khí, ở mọi lúc, mọi nơi,… để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, viết nên truyền thống vẻ vang, đánh giặc giữ nước bằng sức mạnh của toàn dân tộc. Thời nào cũng vậy, khi đã phát huy được cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, thì không một thế lực nào khuất phục được dân tộc ta - đó là thực tế mà không thế lực nào có thể phủ nhận.

Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đường lối chiến tranh nhân dân vẫn là đường lối cơ bản, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong tổ chức, chuẩn bị và sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra). Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay có sự phát triển, thay đổi rất khác trước, dự báo đối tượng tác chiến sẽ sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao, vũ khí thông minh cùng những phương thức tác chiến mới. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng cao, nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, ly khai, giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong tình hình ấy, đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân trong đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn còn nguyên giá trị. Mọi luận điểm phủ nhận, xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân chỉ là mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch. Trên thực tế, chúng ta chưa bao giờ coi nhẹ vũ khí công nghệ cao; tuy nhiên, vũ khí công nghệ cao không phải là “vũ khí vạn năng”, nó cũng có những hạn chế, bởi nó được chế tạo theo hệ thống, vận hành theo hành trình, quy luật, một số loại còn chịu ảnh hưởng rất lớn của địa hình, thời tiết, một số loại còn bay thấp, tốc độ không cao, v.v. Nếu có các giải pháp hợp lý vẫn có thể hạn chế hiệu quả của vũ khí công nghệ cao, kể cả các giải pháp thô sơ, truyền thống. Nhưng vũ khí dù có hiện đại đến đâu vẫn do con người sử dụng, vì thế không thể coi nhẹ yếu tố con người, mà đường lối chiến tranh nhân dân là đường lối phát huy cao độ yếu tố con người, với phẩm chất kiên cường, bất khuất, có ý chí, quyết tâm cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chiến đấu vì quê hương, đất nước. Vũ khí công nghệ cao có thể phá hủy được một số mục tiêu cố định, sát thương được một bộ phận lực lượng vũ trang và nhân dân ta, nhưng không thể đánh được tất cả mọi nơi trên đất nước Việt Nam và càng không thể là vũ khí bất khả xâm phạm; còn Đảng, còn Quân đội, còn Nhân dân, chúng ta còn chiến thắng. Đó chính là chiến tranh nhân dân.

Lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân là lực lượng toàn dân, có mặt ở khắp mọi nơi, tạo thế trận rộng khắp, có thể bắn hạ tên lửa hành trình, máy bay không người lái, máy bay bay thấp, có thể đánh hiểm vào các khu vực bố trí vũ khí công nghệ cao của địch trên các môi trường, địa hình,... bằng các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ. Trong tương lai, nếu buộc phải tiến hành chiến tranh, chúng ta vẫn phải kiên trì đường lối chiến tranh nhân dân, nhưng có sự phát triển ở trình độ cao và vẫn phải đánh với đối phương có vũ khí, trang bị hiện đại hơn ta, thậm chí hiện đại hơn ta rất nhiều lần. Chỉ có chiến tranh nhân dân mới phát huy được cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc đánh thắng quân xâm lược, kể cả chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao và chỉ có chiến tranh nhân dân mới có nhiều giải pháp hạn chế vũ khí công nghệ cao. Đây cũng là câu trả lời đanh thép để bác bỏ luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.