Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG SUY DIỄN SAI TRÁI, CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

 

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG SUY DIỄN SAI TRÁI, CHỐNG PHÁ VIỆT NAM


Lợi dụng việc Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam họp ngày 21/3/2024, bỏ phiếu kín và thông qua nghị quyết về việc miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2021 – 2026 và cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội khóa XV đối với ông Võ Văn Thưởng thuộc Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng, trên một số trang mạng xã hội có nhiều bài viết suy diễn sai trái, xuyên tạc về công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó phải kể đến bài viết của Chánh Thành với tiêu đề: “6 năm 8 đời chủ tịch nước: một đảng nhưng nhiều phái” đăng trên trang “Vietnamthoibao. Y cho rằng: “Nhà nước Cộng sản Việt Nam trước đây vẫn được tuyên truyền là ổn định với thể chế đơn nguyên, không tranh cử. Thế nhưng 8 lần đổi ngôi này đã thể hiện sự mất đoàn kết và tan rã của hệ thống độc tài, Đảng cộng sản hiện nay tuy là một đảng nhưng nhiều phái”. Đây rõ ràng là một suy diễn hết sức phản động, không có cơ sở lý luận và thực tiễn, xuyên tạc trắng trợn tình hình nội bộ Việt Nam, nhằm gây tâm lý hoang mang, bất ổn trong xã hội.

Thứ nhất, việc miễn nhiệm, từ chức của cán bộ, đảng viên thực hiện đúng quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Có thể khẳng định thể chế chính trị Việt Nam là thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất, không thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đảng, các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình và yêu cầu nhân dân, báo chí giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên.

Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước quản lý và tổ chức thực hiện, nhân dân làm chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động dựa trên nhiều nguyên tắc, trong đó có nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nêu gương của cán bộ, đảng viên, kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Những nội dung này được Đảng và Nhà nước quy định cụ thể trong Điều Lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và được cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật, các quy định rất chặt chẽ, có đầy đủ căn cứ pháp lý đối với việc miễn nhiệm, từ chức của cán bộ. Nhất là, trong Quy định số 41-QĐ/TW ngày 03/11/2021 của Bộ Chính trị về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Trong đó, quy định rõ các căn cứ, quy trình xem xét miễn nhiệm, từ chức và bố trí công tác đối với cán bộ sau khi từ chức. Mục tiêu của việc miễn nhiệm cán bộ vừa đáp ứng nguyện vọng của cá nhân, vừa góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng, quản lý, sử dụng cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng dù đảm nhiệm chức vụ cao hay thấp thì việc miễn nhiệm, từ chức đều được thực hiện theo đúng Điều Lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; việc miễn nhiệm, từ chức là không thể do một tổ chức hay một cá nhân, tổ chức nào có thể can thiệp, ép buộc được và càng không thể suy diễn, vu khống như lời Chánh Thành là do mất đoàn kết nội bộ, hay trong Đảng có “nhiều phái”.

Thứ hai, thực tế công tác lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác cán bộ thời gian qua đã chứng minh: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng ta không còn lợi ích nào khác. Mục tiêu của Đảng là xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, từ khi ra đời đến nay, Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng, chăm lo đến cán bộ và công tác cán bộ, coi công tác cán bộ là công việc gốc của Đảng, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, qua hơn 94 năm, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quy định về công tác cán bộ; thực hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; luôn coi trọng, đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, nhận xét, đánh giá, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ, gắn chặt với rèn luyện, thử thách cán bộ qua từng chức trách, nhiệm vụ được giao và thực hiện chặt chẽ ở các cấp. Đặc biệt, Đảng ta thường xuyên đổi mới, nâng cao cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền, tham ô, tham nhũng trong Đảng và bộ máy Nhà nước. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: Công tác cán bộ có nhiều đổi mới, được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ và đạt một số kết quả quan trọng; về tổng thể, đội ngũ cán bộ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới,… từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Vì vậy, trước những luận điệu suy diễn, xuyên tạc và chống phá của các thế lực thù địch, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nêu cao cảnh giác, đồng thời kiên quyết đấu tranh bác bỏ./.

Không một thế lực nào có thể hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam*

 

Thời gian qua, lợi dụng tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường cùng một số mặt khó khăn của đất nước, các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá cách mạng nước ta trên nhiều hướng, đặc biệt trên môi trường mạng xã hội hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ coi đây là đột phá khẩu, con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để xóa bỏ mọi thành quả của cách mạng Việt Nam mà Đảng và Nhân dân ta đã dày công vun đắp, tạo dựng. Nhưng thực tiễn đã khẳng định, không một thế lực nào có thể hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.

Họ cho rằng: (1). Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước và dân tộc là phi logic, phi lịch sử, lẽ ra phải là đội ngũ tinh túy của giới tinh hoa mới phù hợp; (2). Xuyên tạc, phủ nhận vai trò lịch sử và thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng; (3). Đảng Cộng sản Việt Nam tuy đã thành công trong việc lãnh đạo giành lại độc lập dân tộc và xây dựng đất nước, nhưng hiện nay, một bộ phận lớn cán bộ cao cấp của Đảng thoái hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu cực cho nên Đảng không còn là đội ngũ tiên phong để lãnh đạo đất nước nữa, v.v. Những luận điệu trên thể hiện mưu đồ đen tối, thâm hiểm, xuyên tạc, bịa đặt, hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Song, chúng ta có đầy đủ cơ sở khoa học và những luận cứ xác đáng để bác bỏ luận điệu sai lầm, phản động, phản khoa học đó.


Quang cảnh Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII. Ảnh: dangcongsan.vn

1. Việc xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước và dân tộc.

Trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, ông cha ta đã mở mang bờ cõi, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; vừa từng bước xây dựng đất nước, vừa kiên quyết đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chiến thắng nhiều đế quốc hung hãn, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã không giữ được độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, với truyền thống yêu nước nồng nàn, các tầng lớp nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên chống giặc. Song, các phong trào: Cần Vương, Duy Tân, Đông Du và các cuộc khởi nghĩa: Yên Thế, Yên Bái,... cùng hàng chục cuộc đấu tranh khác đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, dìm trong biển máu. Sự đô hộ của thực dân Pháp gần một thế kỷ đã chứng tỏ cả giai cấp phong kiến và đại diện cho các thế lực tư sản đã hết vai trò lịch sử, vận mệnh của dân tộc và đất nước lâm vào tình thế bế tắc, không có đường ra. Vấn đề bức thiết đặt ra lúc đó là bằng con đường nào, cách thức nào, tổ chức lực lượng thế nào để đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc.

Vấn đề vô cùng bức thiết này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) đưa ra lời giải đáp. Trong suốt 30 năm đi tìm đường cứu nước, Người đã nhận rõ con đường giành độc lập dân tộc phải là con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc đã gieo hạt, gây mầm và tạo dựng sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Với kỳ công của Người, đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển hóa thành một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện đã được dân tộc giao phó, giành lại độc lập dân tộc và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Lịch sử 94 năm của Đảng là hành trình thực hiện nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp nhưng rất đỗi vinh quang.

2. Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng

Thứ nhất, Đảng xác định và lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu lý tưởng của sự nghiệp cách mạng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vừa ra đời, Đảng ta đã chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Chủ trương đó đã được nhân dân đồng tình cao và trở thành lẽ đương nhiên; chủ nghĩa xã hội lúc này không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà còn là xung lực thúc đẩy lịch sử Việt Nam chuyển mình, là con đường để dân tộc Việt Nam tạo dựng cơ đồ đất nước ngày càng bền vững. Mục tiêu lý tưởng và sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về logic là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu và xu thế của thời đại. Đó là hệ giá trị cơ bản nhất cho đất nước Việt Nam vừa qua, hôm nay và mai sau; là con đường duy nhất để kiến tạo và phát triển đất nước.

Thứ hai, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành lại giang sơn cho đất nước, độc lập, tự do cho dân tộc. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ của Đảng, toàn thể nhân dân ta chung sức, chung lòng tiến hành cuộc cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức và đã giành được những thắng lợi vĩ đại, như: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954; đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; chiến thắng chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội với các nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ được hình thành trên cơ sở tổng kết hoạt động thực tiễn và nâng tầm lý luận. “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ tổng thể của toàn Đảng, Nhà nước và toàn dân ta nhằm đưa nước ta thành nước tiên tiến với mục tiêu cao cả: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”1.

Bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là việc Đảng ta phát động và lãnh đạo tổ chức thực hiện sự nghiệp đổi mới, tạo ra bước đột phá lớn và toàn diện, làm xoay chuyển tình hình đưa đất nước tiến lên. Chính đổi mới đã đưa đất nước ta từ chỗ thiếu thốn, hàng năm phải nhập lương thực để đảm bảo mức sống tối thiểu, nay trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều mặt hàng nông sản đứng nhất nhì thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn tới thành thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách sống và làm việc của mọi người lại có những nét mới mẻ, tươi vui và sinh động như hôm nay. Đổi mới đã đem đến một sức sống mới cho đất nước, tiếp sức và nâng bước cho đôi chân chúng ta trên con đường hạnh phúc. Sau gần 40 năm đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”2.

3. Đảng và Nhà nước ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và đã đạt được những kết quả tích cực.

Nhận thức rõ tham nhũng, suy thoái, thoái hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên sẽ làm suy yếu Đảng, giảm quyền lực của Nhà nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chung của đất nước, Đảng và Nhà nước có quyết tâm chính trị rất cao trong đấu tranh phòng, chống các biểu hiện tiêu cực này. Nó trở thành nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị.

Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994, Đảng ta đã xác định nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác là một trong bốn nguy cơ đối với Đảng. Các nhiệm kỳ tiếp theo, Đảng ta thường xuyên ban hành các nghị quyết liên quan đến phòng, chống tham nhũng, suy thoái, thoái hóa, biến chất. Đại hội XII của Đảng xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó điều đầu tiên là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”3.

Cụ thể hóa các quan điểm, chủ trưởng của Đảng, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống các tệ nạn này; các cơ quan chuyên trách được kiện toàn, đẩy mạnh hoạt động và phát huy hiệu quả. Cùng với những giải pháp quyết liệt trong nước, Việt Nam đã tham gia và ký kết nhiều văn bản pháp lý quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận, hưởng ứng của nhân dân, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thoái hóa, biến chất đã đạt được những kết quả tích cực. Trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam nhân dịp đầu năm 2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Năm 2022, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, có nhiều điểm mới, đạt nhiều kết quả cụ thể, được cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ, đánh giá cao”. Đồng thời, chỉ rõ: “Trước một số ý kiến cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí”, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, sẽ làm “chậm sự phát triển đất nước”; có thể khẳng định và thực tế đã chứng minh hoàn toàn ngược lại, chính nhờ làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chúng ta giữ vững ổn định chính trị xã hội, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân và bạn bè quốc tế”.

Sự thật không thể phủ nhận rằng chặng đường từ khi có Đảng là chặng đường rất đỗi vinh quang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã chứng tỏ con đường cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn là đúng đắn, sáng tạo. Hiện nay, đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế do Đảng ta khởi dựng, lãnh đạo, tổ chức thực hiện rất phù hợp với nhịp bước của thời đại. Đổi mới và hội nhập quốc tế là hai nhiệm vụ chiến lược thực hiện mục tiêu chung phát triển đất nước. Thành công của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi rõ rệt diện mạo của đất nước, tăng cường xung lực cho đời sống xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đất nước ta ngày càng lớn mạnh, vững chắc, tạo phong độ mới, thế mới, lực mới để vươn tầm, có đủ sức lực và trí tuệ để sánh vai cùng bạn bè thế giới. Chúng ta tin tưởng rằng, đất nước ngày càng phát triển vững chắc, tươi sáng hơn với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính điều đó đã khẳng định, không một thế lực nào có thể hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM LÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TOÀN ĐẢNG VÀ TỪNG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 

CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM LÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TOÀN ĐẢNG VÀ TỪNG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN


Tham nhũng được xác định là một trong những nguy cơ, thách thức đe dọa đến vị thế, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn có thái độ kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng cũng như các tệ nạn và tiêu cực xã hội khác. Gần đây, nhất là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã nêu cao trách nhiệm, tích cực, khẩn trương, quyết liệt trong triển khai phòng, chống tham nhũng. Nhiều khó khăn, vướng mắc được tháo gỡ; tiến độ thanh tra, xác minh các vụ việc, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng kinh tế nghiêm trọng, phức tạp được đẩy nhanh, góp phần tạo chuyển biến tích cực, rõ nét trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng.

Lợi dụng vấn đề này, các phần tử phản động ra sức xuyên tạc, quy kết, phủ nhận kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta. Gần đây, trên nhiều diễn đàn phản động đã phát tán bài viết “Đảng “quyết liệt” diệt tham nhũng do tình trạng sức khỏe của tổng bí thư” của Thu Hằng có nội dung kích động, xuyên tạc, công cuộc phòng chống tham nhũng của Đảng ta. Bài viết đã đưa ra những nhận định hết sức hồ đồ “…chiến dịch chống tham nhũng quyết liệt tác động đến ổn định về kinh tế…..nhiều cán bộ “ngại” ký các hợp đồng đầu tư vào cơ sở hạ tầng do sợ bị cáo buộc tham nhũng” và “…tương lai của chiến dịch phòng chống tham nhũng sẽ ra sao, trong khi dường như ông là người đấu tranh nhiệt thành duy nhất”. Thực chất, đây là những luận điệu bịa đặt, quy kết vô căn cứ nhằm gieo rắc tâm lý hoài nghi, dao động, mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; gây mất đoàn kết, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tạo nhận thức lệch lạch về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Đảng ta lãnh đạo.

Chúng ta cần phải khẳng định rằng Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Kiên định thực hiện mục tiêu đó, gần đây nhiều vụ án lớn, nhiều người vi phạm bị khởi tố, điều tra, xét xử nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra trên 7.800 vụ án với hơn 15.200 bị can về tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế. Riêng vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á đã khởi tố 109 bị can; vụ án xảy ra trong lĩnh vực đăng kiểm đã khởi tố 613 bị can; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự – Bộ Ngoại giao đã khởi tố 54 bị can; trong các cơ quan phòng, chống tham nhũng đã xử lý kỷ luật trên 300 cán bộ, công chức có sai phạm; khởi tố, điều tra trên 40 vụ án tham nhũng, chức vụ, tiêu cực xảy ra trong hoạt động tư pháp. Do đó, tham nhũng, tiêu cực từng bước được ngăn chặn, đẩy lùi, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Ngày 6/4/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 12-KL/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chỉ rõ: Năm năm qua, các cấp ủy, tổ chức đảng đã nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) , tạo bước tiến rõ nét, đột phá trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Vai trò, trách nhiệm của Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được nâng lên; từng bước hoàn thiện thể chế phòng ngừa tham nhũng. Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt; tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn. Những thành quả quan trọng đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.

Kết quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và sự phát triển của Việt Nam là không thể xuyên tạc, phủ nhận. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thực tế đó là bằng chứng đanh thép nhất, bác bỏ hoàn toàn những quy kết, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động như Thu Hằng. Tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân Việt Nam cần đề cao tinh thần cảnh giác, nhận diện chính xác âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, quy kết, xuyên tạc góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng./.

Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng chống phá, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận diện, bóc trần và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch đó là việc làm rất cần thiết, qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đảng đã tự xác định vai trò là “đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng"(1). Đảng đã lãnh đạo nhân dân vùng lên đấu tranh xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến; khẳng định nền độc lập, tự do cho dân tộc bằng sự kiện ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong suốt 94 năm, Đảng luôn khẳng định “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(2). Đảng cũng xác định rõ vị trí, vai trò là “cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(3) để thực hiện những cam kết chính trị và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước lịch sử.

Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được khẳng định rõ trong Hiến pháp - văn bản pháp luật cao nhất của đất nước: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam..., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(4). Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được Nhà nước, xã hội, nhân dân công nhận và được hiến định, là sự ghi nhận những cống hiến của Đảng và khẳng định vai trò lãnh đạo tất yếu của Đảng trong mọi bước phát triển của cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền đến nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chưa bao giờ ngừng chống phá, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Sự chống phá dưới mọi hình thức đó ngày càng tinh vi hơn, từ hình thức vũ trang, bán vũ trang nay chuyển sang núp dưới âm mưu "diễn biễn hòa bình”, nhất là sử dụng internet, các trang báo mạng phản động để đăng tải những nội dung chống phá, xuyên tạc, bóp méo sự thật về vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 - mà thực chất, là xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng(?!). Họ cho rằng, Điều 4 Hiến pháp 2013 quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã phủ nhận quyền lực của nhân dân trong việc lựa chọn đảng cầm quyền thông qua bầu cử, cũng như phủ nhận quyền lực của nhân dân trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, là trái với nguyên tắc của một thể chế nhà nước dân chủ(?!)

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn tập trung phê phán, thổi phồng các điểm tiêu cực, hạn chế trong đời sống kinh tế - xã hội, cố tình bôi đen, hạ thấp những thành tựu to lớn của đất nước đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng; đánh lạc hướng dư luận, gây tâm lý dao động, hoang mang trong nhân dân. Từ đó, các thế lực thù địch đã đẩy mạnh việc kích động, lôi kéo, xúi giục việc chống phá Đảng, Nhà nước ta,...

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu, khách quan, từ mong muốn của nhân dân, đòi hỏi của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đảng nắm giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền bằng uy tín, năng lực mà không một đảng phái nào có thể thay thế được.

Từ nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và cai trị, trở thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Với truyền thống chống giặc ngoại xâm và tinh thần yêu nước nồng nàn, trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản và những cuộc đấu tranh tự phát của giai cấp công nhân. Mặc dù các phong trào đấu tranh diễn ra rất sôi nổi và liên tục ở khắp các địa phương, vùng, miền, nhưng cuối cùng đều thất bại.

Trước thực trạng khủng hoảng, bế tắc về con đường cứu nước, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có một tổ chức cách mạng tiên phong với đường lối đúng đắn để lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc đấu tranh giành độc lập. Trong quá trình bôn ba khắp năm châu, bốn bể tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cách mạng vô sản và khẳng định cách mạng muốn thành công, cần: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”(5). Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, thông qua vai trò lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đã hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi khách quan của lịch sử đất nước.

Về tổ chức: Đảng “là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh”(6); có đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, sẵn sàng đấu tranh vì lý tưởng của Đảng, vì Tổ quốc và nhân dân. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng, khoa học, tiến bộ; là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

Về đường lối cách mạng: Ngay tại Hội nghị thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, trong đó vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ và con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam, đó là: Tiến hành cuộc cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - một chế độ tốt đẹp, ưu việt nhất dành cho tất cả người dân Việt Nam. Đây là con đường cách mạng đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

Với ý nghĩa đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu, đã chấm dứt sự khủng hoảng về tổ chức lãnh đạo và đường lối cứu nước ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, trước và sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành Đảng cầm quyền cho đến năm 1988(7), ở Việt Nam đã hình thành và tồn tại nhiều đảng chính trị với ý thức hệ, tôn chỉ, mục đích hoạt động khác nhau, song đều thất bại. Trong bối cảnh các lực lượng, tổ chức, đảng phái khác trong xã hội đã bị thất bại, không đảm đương được vai trò lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, nên ngay khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trước sóng gió “chấn động chính trị” cuối thập niên 80 - đầu thập niên 90 (thế kỷ XX) làm hàng loạt các đảng cộng sản bị mất vai trò cầm quyền, dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ vững vai trò cầm quyền, bản lĩnh, sáng suốt đề ra đường lối đổi mới đúng đắn.

Với năng lực, bản lĩnh và uy tín của một đảng mác-xít chân chính, được rèn luyện qua muôn vàn khó khăn, thử thách, Đảng đã lãnh đạo đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8). Thực tiễn lịch sử cách mạng và những thành tựu vĩ đại đạt được đã chứng minh: “Ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; lợi ích của nhân dân gắn liền với sự nghiệp của Đảng; mục đích, lý tưởng của Đảng cũng là ước mơ, nguyện vọng của nhân dân”(9).


Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng với các già làng, trưởng bản và người có uy tín trong đồng bào các dân tộc Tây Nguyên _Ảnh: TTXVN

Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền, nghĩa là Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước lịch sử về sự phát triển của đất nước, của dân tộc, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho người dân. Đảng phải đề ra được quan điểm, chủ trương, đường lối, chiến lược, định hướng lớn đúng đắn để xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời, phải làm cho quan điểm, chủ trương của Đảng được thực hiện hiệu quả trong thực tiễn. Muốn vậy, Đảng phải luôn nhất quán nguyên tắc “tập trung dân chủ”, mọi công việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ theo quy định, nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân theo Cương lĩnh, nghị quyết, Điều lệ Đảng. Đảng cầm quyền trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng càng phải khẳng định được năng lực lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; đồng thời, phải bảo đảm “các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(10), không được “đứng trên”, “đứng ngoài” pháp luật, cũng không “độc đoán, chuyên quyền” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Đảng lãnh đạo Nhà nước, phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng lãnh đạo “bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật”(11). Nhà nước thể chế hóa mọi đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp và pháp luật, qua đó, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Sau mỗi kỳ đại hội Đảng, nghị quyết của Đảng sẽ được Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan nhà nước triển khai bằng việc thể chế hóa thành các văn bản, quy định, bảo đảm triển khai thực hiện trong xã hội.

Trong điều kiện cầm quyền duy nhất ở Việt Nam, việc Đảng hoạt động theo nguyên tắc, Điều lệ Đảng và trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật chính là cơ sở vững chắc bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng; phòng, chống mọi nguy cơ độc quyền, thoái hóa, biến chất có thể xảy ra.

Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy quyền làm chủ của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đề cao dân chủ, tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Độc lập dân tộc, giải phóng con người, mang lại quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội cho tất cả người dân Việt Nam chính là mục tiêu, là lý tưởng phấn đấu của Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mặc dù trong điều kiện đất nước có chiến tranh, vô cùng khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng vẫn luôn quan tâm đến quyền dân chủ cho nhân dân, như thực hiện người cày có ruộng, phổ thông giáo dục, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần… Vấn đề quyền con người, thực thi dân chủ được Đảng gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, khẳng định chủ quyền của quốc gia - dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, mối liên hệ gắn bó với nhân dân, vấn đề dân chủ tiếp tục được Đảng đặc biệt chú trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(12). Với nhận thức đúng đắn đó, Đảng luôn chú trọng lãnh đạo xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ phải được thực hiện trong toàn hệ thống chính trị thông qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Điểm cốt lõi của việc bảo đảm dân chủ là Đảng luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”(13). Mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng là vì hạnh phúc của nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều bắt nguồn từ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, phục vụ nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(14).


Thày giáo mang quân hàm xanh _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thứ tư, Đảng luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(15). Việc Đảng cầm quyền duy nhất rất dễ dẫn đến tệ quan liêu, bảo thủ, trì trệ, do đó, đòi hỏi Đảng phải luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, kiểm soát quyền lực lãnh đạo để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, cầm quyền được lịch sử ghi nhận và nhân dân tin tưởng giao trọng trách.

Đảng “phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(16). Đây là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(17); đồng thời “không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(18).

Đảng không ngừng xây dựng, chỉnh đốn, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và giữ nghiêm kỷ luật đảng để giữ cho tổ chức đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân; bảo đảm đủ năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu trong mọi hoàn cảnh, nhiệm vụ.

Đảng luôn coi trọng công tác tư tưởng, quan tâm phát triển đội ngũ đảng viên.  Không ngừng rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ.

Đảng luôn đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, không ngừng nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị và tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng để tổ chức thực hiện thắng lợi trong thực tiễn.../.

VẠCH TRẦN NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ TÌNH HÌNH NHÂN QUYỀN, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM CỦA HOÀNG LAN MỘC CHÂU

 

Vừa qua, trên mạng internet, Hoàng Lan Mộc Châu đã đăng tải bài viết với tựa đề “Việt Nam loạn lạc vì không có nhân quyền, tôn giáo bị tha hóa, và quan lại hủ bại” với những luận điệu xuyên tạc tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam. Y vu cáo chính sách của Nhà nước Việt Nam là “triệt hạ, chia rẽ và phá hoại tôn giáo từ ngay nội bộ”. Đặc biệt, y bịa đặt “từ khi nắm quyền, các tôn giáo là đối tượng hàng đầu để Đảng Cộng sản triệt hạ. Hàng loạt cơ sở tôn giáo bị phá hủy, tịch thu, hàng loạt tu sĩ bị cầm tù, bị giết hại”. Theo đó, thực hiện âm mưu kích động, chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết giữa các tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, cần nhận thức đúng về nhân quyền, chính sách tự do tôn giáo của Việt Nam là cơ sở để vạch trần những luận điệu sai trái của những phân tử phản động như Hoàng Lan Mộc Châu.

Trong suốt các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm bảo vệ và thực thi các quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo luôn được quan tâm bảo đảm. Việc bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được luật hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở tuân thủ đầy đủ và phù hợp với những quy định của luật pháp quốc tế về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo. Về phương diện Hiến pháp: Tại Điều 10 Hiến pháp năm 1946 nhấn mạnh: Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các quy định về quyền con người, trong đó khẳng định rõ hơn việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, được ghi tại Điều 16: và tại Khoản 1, 2, Điều 24 khẳng định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, đồng thời là cơ sở để Nhà nước, Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trên thực tế. Để cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 2013, ngày 18/11/2016 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XIV với 9 chương, 8 mục và 68 điều quy định rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo, áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Trong đời sống thực tế của xã hội Việt Nam hiện nay, thể hiện rõ sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo được tôn trọng, được pháp luật bảo vệ như nhau, mọi người hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào. Hiện nay, cả nước đã có 3700 điểm nhóm được chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, hơn 6.500 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 16.783 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc, có 62 cơ sở đào tạo tôn giáo tại 36 tỉnh, thành phố; 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, được ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như mọi công dân khác theo quy định của pháp luật. Quốc hội khóa XV có 05 đại biểu là chức sắc, nhà tu hành tôn giáo: 04 đại biểu Phật giáo, 01 đại biểu Công giáo; hiện có trên 10 nghìn chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo là đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026.

Có thể thấy, cả phương diện chính sách, pháp luật cũng như thực tiễn về bảo đảm thực thi quyền tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã chững minh rõ ràng và dứt khoát rằng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi công dân Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo vệ, cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào, không một ai có quyền xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Những luận điệu của Hoàng Lan Mộc Châu đã cố tình xuyên tạc, phủ nhận tình hình nhân quyền, tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cần phải được lên án mạnh mẽ và bác bỏ./.

Nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước

 

Nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước

Ngay từ những ngày thành lập, Đảng ta đã xác định chính sách dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là một yếu tố mang tính quyết định góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. (Ảnh minh hoạ) (Ảnh minh hoạ) Trong mỗi giai đoạn lịch sử, chính sách dân tộc không ngừng được Đảng, Nhà nước ta quan tâm bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp tình hình thực tiễn và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây các nguyên tắc, vấn đề cơ bản về vấn đề dân tộc tiếp tục được khẳng định và bổ sung nhằm phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Vừa qua, lợi dụng sự việc một nhóm đối tượng gây mất an ninh trật tự ở Đắk Lắk, các tổ chức, cá nhân chống phá, thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam lập tức khai thác triệt để nhằm vu cáo chính quyền, xuyên tạc các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Đáng chú ý, chiêu bài vu cáo “Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền” tiếp tục được các đối tượng chống phá triệt để sử dụng như cho rằng nguyên nhân của vụ việc là do “người dân tộc không khuất phục, không quy thuận người Kinh”, “do căng thẳng sắc tộc, tôn giáo”. Có thể thấy, đây là một trong những chiêu trò quen thuộc của chúng nhằm cố tình xuyên tạc bản chất của vụ việc, hướng lái dư luận theo những ý đồ đen tối. Trong khi đó, dựa trên những kết quả điều tra thực tế, cơ quan chức năng đã đánh giá đây là vụ khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của các đối tượng rất man rợ, mất nhân tính, thể hiện quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng. Lực lượng công an đã có tài liệu, chứng cứ chứng minh vụ án xảy ra còn do có sự hậu thuẫn, chỉ đạo từ một số tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, thậm chí cử đối tượng từ nước ngoài xâm nhập trái phép về Việt Nam dàn dựng, chỉ đạo tấn công khủng bố. Hiện nay các cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Thông tin về vụ việc đã được công bố kịp thời trên các phương tiện truyền thông đại chúng để người dân chủ động nắm bắt, hiểu rõ bản chất vấn đề, tuyệt đối không tin, nghe theo những luận điệu xuyên tạc của các đối tượng xấu. Vụ việc nêu trên một lần nữa cho thấy các thế lực thù địch, phản động luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách dân tộc ở Việt Nam. Thực tế, nhiều năm qua, mỗi khi xảy ra vấn đề nào có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số thì các đối tượng này đều tìm cách triệt để lợi dụng với mục đích kích động mâu thuẫn, xung đột, làm căng thẳng tình hình, từ đó tìm cách mua chuộc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, bất mãn thực hiện các hành vi chống phá, gây rối theo sự điều hành, dẫn dắt của chúng. Bằng cách này chúng âm mưu tạo ra những mầm mống ly khai, chia rẽ nội bộ từ bên trong, gây bất ổn về chính trị, làm suy yếu chính quyền địa phương. Thí dụ việc một số đồng bào dân tộc thiểu số do chưa nắm rõ thông tin nên chưa đồng tình với một vài chính sách ở các địa phương, đã được các đối tượng phản động lập tức xuyên tạc thành “chính quyền đàn áp người dân tộc thiểu số, vi phạm quyền tự do tôn giáo, nhân quyền của đồng bào du canh du cư”, nhằm kích động người dân bất hợp tác, chống đối cơ quan chức năng, hủy hoại tài sản của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Bên cạnh đó các đối tượng chống phá thường xuyên khai thác sự chênh lệch về mức hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần giữa các vùng miền để khoét sâu những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, những nơi xảy ra thiên tai, dịch bệnh từ đó xuyên tạc rằng “Đảng, Nhà nước ta thiếu quan tâm”, “đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”... Chưa kể, lợi dụng một số yếu kém, sai phạm trong công tác quản lý, điều hành ở một số địa phương, các đối tượng chống phá lập tức lu loa, biến thành vấn đề chính sách dân tộc của Việt Nam là thiếu bình đẳng, không công bằng. Mưu đồ sâu xa là từ việc gây ra những “đốm lửa nhỏ” như vậy các đối tượng chống phá hy vọng sẽ thổi bùng lên thành những “đám cháy” lớn để kích động lôi kéo, tập hợp lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước, kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế nhằm “quốc tế hóa” các vấn đề nội bộ, từ đó lật đổ chế độ, cản trở sự phát triển của Việt Nam. Cần khẳng định rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán về chủ trương, chính sách dân tộc, theo nguyên tắc đã được xác định trong Hiến pháp 2013 đó là: nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (Điều 5). Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước ta còn thường xuyên có những chủ trương, chính sách, văn bản chỉ đạo, định hướng đối với công tác dân tộc nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc đều bình đẳng, được tôn trọng như nhau, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Tiêu biểu có thể kể đến Nghị quyết số 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Đảng ta đã ban hành nghị quyết riêng về công tác dân tộc (Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 12/3/2003). Quốc hội đã ban hành các luật khung và luật chuyên ngành nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền cũng như chính sách hỗ trợ phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thống kê sơ bộ cho thấy từ năm 2010 đến 2022 Chính phủ đã xây dựng, ban hành 118 văn bản chính sách; 54 đề án, chính sách dân tộc trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trong đó có các nhóm chính sách: về giảm nghèo bền vững; giáo dục, đào tạo; y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số, miền núi và nhóm chính sách, cơ chế đặc thù về truyền thông và tuyên truyền vận động, phổ biến giáo dục pháp luật,... Đáng chú ý, ngày 28/1/2022 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 10/NQ-CP về chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó tiếp tục nhấn mạnh quan điểm kiên trì và nhất quán thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển; phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào dân tộc trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, hướng tới mục tiêu vì một Việt Nam thịnh vượng. Từ những chủ trương, chính sách đúng đắn, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Đảng, Nhà nước, những chính sách dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 30/10/2019 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới ghi nhận: công tác dân tộc có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước. Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp đã cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết phù hợp với điều kiện của địa phương, đơn vị. Nhà nước đã ban hành chính sách, pháp luật, bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tăng cường vận động, tuyên truyền, động viên đồng bào dân tộc thiểu số tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực để phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao cuộc sống, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư, góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện rõ nét. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo và chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống được bảo tồn và phát huy. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản được bảo đảm; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi được tăng cường, đội ngũ cán bộ được kiện toàn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ. Quốc phòng, an ninh, chính trị được giữ vững, ổn định. Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, Đảng ta khẳng định: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được triển khai mạnh mẽ, chuyển từ cách tiếp cận đơn chiều sang đa chiều, tập trung vào nhóm, hộ nghèo nhất. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016-2020 giảm hơn 1,4%/năm. Kết cấu hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Trong suốt các chặng đường phát triển của đất nước, Đảng ta luôn đưa ra nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chú trọng chăm lo đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, động viên nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Tuy vậy trong quá trình thực hiện có lúc, có nơi vẫn còn một số hạn chế, bất cập, một vài chính sách dân tộc chưa thật sự phát huy hiệu quả, vẫn còn những mâu thuẫn, vướng mắc chưa được giải quyết dứt điểm. Từ đây đòi hỏi hệ thống chính quyền cơ sở, các cơ quan, ban, ngành liên quan tiếp tục nâng cao trách nhiệm, kịp thời khắc phục những yếu kém, khuyết điểm. Không phủ nhận những hạn chế, nhưng chúng ta cũng kiên quyết phản bác những luận điệu xuyên tạc thành tựu của Việt Nam đã đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc. Sự phát triển của đất nước về mọi mặt, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cải thiện và nâng cao, niềm tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được củng cố... là minh chứng thuyết phục về sự đúng đắn trong những chủ trương chính sách của Đảng ta về công tác dân tộc, tạo nền tảng quan trọng để đất nước tiếp tục vững bước tiến về phía trước./.

Không để đứt gãy tinh thần “xây” và “chống”

 

Không để đứt gãy tinh thần “xây” và “chống”

Các cơ quan, đơn vị, địa phương vừa tổ chức sơ kết 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Một trong những bài học kinh nghiệm được rút ra là phải tiếp tục quán triệt, đẩy mạnh, làm sâu sắc thêm tinh thần, nhiệt huyết “xây” và “chống”... Ảnh minh họa: tuyengiao.vn Ảnh minh họa: tuyengiao.vn Không thể tư duy kiểu “hớt váng” Sau 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW (gọi tắt là Kết luận 01), trong quá trình tổ chức hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm, thực tiễn ở nhiều cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị các cấp ghi nhận không ít ý kiến băn khoăn. Một trong những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm đặt ra là: Tại sao Đảng ta càng đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật càng nhiều? Tại sao ở một số bộ, ngành, địa phương, mặc dù người đứng đầu mỗi lần đăng đàn phát biểu trong các hội nghị liên quan đều hô hào phải đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực, suy thoái, nhưng chỉ mới “dăm bữa nửa tháng” đã vướng vòng lao lý? Một số cán bộ vừa mới hôm qua lên diễn đàn thuyết giảng đạo lý, hôm sau đã phải tra tay vào còng? Phải chăng, thực trạng đó chứng minh, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chỉ là hình thức, kém hiệu quả, trước hết là ở ngay trong hệ thống chính trị, ngay trong hàng ngũ cán bộ cấp cao? Phải chăng cán bộ càng được học cao, vi phạm càng nhiều... Những vấn đề được một bộ phận dư luận xã hội đặt ra như trên một phần xuất phát từ những thông tin do các thế lực thù địch xuyên tạc, lèo lái. Thành tựu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp luôn là đề tài được các đối tượng cực đoan, bất mãn có tư tưởng thù địch khai thác, thực hiện các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian mạng. Họ bám vào các vụ việc tiêu cực, các cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống bị xử lý kỷ luật đảng, truy tố trước pháp luật để suy diễn, xuyên tạc, phủ nhận thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; bóp méo, bôi đen tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thông tin sai trái, xấu độc trên không gian mạng đã tác động đến tâm lý, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng, dẫn đến kiểu tư duy “hớt váng”, thấy hiện tượng mà không hiểu bản chất; thấy cây mà không thấy rừng... Để hiểu rõ những chuyển biến tích cực và kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện Kết luận 01 cũng như thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện. Trước hết, đó là tinh thần, phương châm chỉ đạo kết hợp “xây” và “chống”. Kết luận 01 nêu rõ nhiệm vụ: “Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn”. Quá trình quán triệt, tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận 01 cần thấy rõ: Đảng ta đã đặt ra yêu cầu vừa khái quát, vừa cụ thể về việc phải gắn chặt, kết hợp việc học tập, làm theo Bác với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp; trong đó có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái trong nội bộ. Như vậy, kết quả học tập, làm theo Bác cần phải được thể hiện cụ thể thông qua hành động, việc làm, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Nói cách khác, nó phải được lượng hóa cụ thể trên thực tế. Trong các hội nghị chuyên đề và quá trình tiếp xúc cử tri, rất nhiều lần các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta đã lưu ý, việc có nhiều cán bộ suy thoái, tham nhũng bị điều tra, xử lý không phải là “càng chống càng sai”, “càng học càng kém”... mà bản chất của vấn đề là do càng ngày chúng ta càng làm mạnh, làm quyết liệt việc đấu tranh, chỉnh đốn đội ngũ theo tinh thần không có vùng cấm. Trước đây, ít có vụ việc bị xử lý không phải là không có tham nhũng, tiêu cực, mà bởi lúc đó công tác đấu tranh chưa quyết liệt như hiện nay nên việc phát hiện, xử lý tiêu cực chưa hiệu quả. Với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “trị một người để cứu muôn người” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh, chúng ta cần thấy rõ, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái là những biểu hiện vô cùng tinh vi, vô cùng khó khăn để có thể lôi ra ánh sáng công lý. Chủ nghĩa cá nhân như sâu mọt đục khoét bên trong thân cây. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tiêu cực gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo Bác với tinh thần “lấy xây để chống” thời gian qua đã lôi ra được hàng loạt cán bộ suy thoái trong nội bộ Đảng. Đó là thành tựu của cuộc đấu tranh đầy cam go, phức tạp và không ít “hy sinh”. Thành tựu đó đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, ngày càng đạo đức, văn minh để xứng đáng với niềm tin và sự gửi gắm của nhân dân. Sự phát triển của tư duy và đòi hỏi gắt gao từ thực tiễn Việc học tập, làm theo Bác không phải đến bây giờ Đảng ta mới đặt ra, mà đó là một hành trình mang tính hệ thống, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng và những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ. Ngay sau khi Bác mất, trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969 đã thể hiện sắt son lời thề: “Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người...”. Từ đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và kiều bào yêu nước khắp nơi trên thế giới đã ghi nhớ khát vọng “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trải qua mỗi giai đoạn lịch sử, cách mạng dân tộc đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc học tập, làm theo Bác cũng đòi hỏi có sự phát triển, bổ sung những nội dung, yêu cầu mới. Đó là sự phát triển tất yếu của tư duy biện chứng. Trong 17 năm qua, kể từ khi Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đến nay, việc học tập và làm theo Bác không ngừng được điều chỉnh, bổ sung nội dung, hình thức, giải pháp thực hiện. Đảng ta đã cụ thể hóa sự phát triển tư duy lý luận và đáp ứng yêu cầu gắt gao từ thực tiễn của đất nước bằng các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc ban hành, triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận 01 đã thể hiện yêu cầu ngày càng cao đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Kết luận 01 chỉ rõ: Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Bác, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. Việc thực hiện Chỉ thị 05 gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các khâu đột phá, các vấn đề cấp bách, bức xúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao... Công tác đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ; tự phê bình và phê bình có nơi, có lúc còn hình thức; tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi... Với phương châm kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”, sắp tới chắc chắn sẽ còn nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong hệ thống chính trị bị xử lý kỷ luật, lôi ra trước ánh sáng công lý. Đặc biệt là hiện nay, khi hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh tiếp tục được củng cố, đẩy mạnh, số lượng cán bộ, đảng viên suy thoái, tham nhũng bị kiểm tra, điều tra, xử lý ở các cấp chắc chắn sẽ còn nhiều thêm. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ tiếp tục diễn ra cam go, phức tạp, nhưng với tinh thần kiên trì, quyết liệt, không có vùng cấm, “lấy xây để chống”, chúng ta có niềm tin son sắt vào thắng lợi của Đảng. Vấn đề cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp cần có là sự nhận thức thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc bản chất của vấn đề bằng phép tư duy biện chứng. Tuyệt đối không tư duy kiểu “hớt váng” dẫn đến nghe theo, hùa theo, làm theo những luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội. Cán bộ, đảng viên có nhận thức thấu đáo, đầy đủ thì mới có cơ sở vững chắc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện ngày càng sâu rộng, hiệu quả việc học tập và làm theo Bác. Tinh thần “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” cần được củng cố, tiếp lửa thường xuyên, liên tục bằng “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”... không để đứt gãy vì bất cứ lý do gì, bất cứ hoàn cảnh nào. Thực hiện đồng bộ giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. "Xây" là tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước; động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng của các địa phương, cơ quan, đơn vị đã đề ra. "Chống" là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... (trích Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị)./.