Thứ Hai, 20 tháng 5, 2024

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc của Thiên Hạ Luận

 

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc của Thiên Hạ Luận


Lợi dụng kết quả công tác phòng chống tham nhũng và công tác cán bộ của Việt Nam gần đây, trên diễn đàn phản động VOA tiếng Việt phát tán bài viết: “Bắt bao nhiêu, trong bao lâu thì hết cán bộ thoái hoá, biến chất?” của Thiên Hạ Luận. Với góc nhìn thiển cận và mưu đồ chống phá rõ ràng, y cho rằng: nhất quán chủ trương, công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam không hiệu quả, nguyên nhân là do Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền trong công tác cán bộ. Luận điệu này cho thấy, Thiên Hạ Luận không hiểu gì về quan điểm của Đảng ta trong phòng, chống tham nhũng và công tác cán bộ.

1. Đảng ta khẳng định, tham nhũng là: “quốc nạn”, là “giặc nội xâm”, phải lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt vấn đề phòng, chống tham nhũng. Đảng ta luôn kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng với quyết tâm chính trị ngày càng cao, hành động ngày càng mạnh mẽ và hiệu quả hơn, với phương châm, “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Phòng, chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những năm qua, Trung ương đã thi hành kỷ luật và cơ quan điều tra đã ra lệnh bắt giam, khởi tố hàng loạt cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương quản lý có hành vi tham nhũng. Đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam đã trở thành phong trào, xu thế và được làm có bài bản, có sự tham gia của cả hệ thống chính trị; công tác phát hiện, xử lý tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.

2. Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng chủ động phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn những đảng viên ưu tú, người ngoài Đảng có đủ phẩm chất, năng lực để giới thiệu vào cơ quan Nhà nước thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọ. Đội ngũ này được bố trí trong các cơ quan Nhà nước, nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở, nhằm phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Công tác, đào tạo, rèn luyện, xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ được gắn liền với trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức Đảng và cá nhân người đứng đầu, người đứng đầu đội ngũ luôn xứng đáng là công bộc của nhân dân.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đảng cũng thừa nhận những hạn chế trong công tác cán bộ đó là: những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung còn ít. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách nhiệm, chưa thực sự gương mẫu. Chính vì vậy, Đảng xác định cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển đất nước. Chú trọng tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tạo môi trường, điều kiện làm việc tốt để thúc đẩy cán bộ đổi mới sáng tạo. Khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đồng thời có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân. Công tác cán bộ luôn có vào, có ra, có lên, có xuống. Chỉ có những cán bộ có đủ phẩm chất năng lực, uy tín, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân mới được bổ nhiệm, đề bạt đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Việc các thế lực thù địch, lợi dụng kết quả trong phòng, chống tham nhũng và công tác cán bộ để xuyên tạc, nói xấu chế độ chính trị ở Việt Nam là đi ngược lại chủ trương, đường lối, quan điểm, của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi ích nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta. Do đó, chúng ta cần nêu cao cảnh giác, nhận diện chính xác và kiên quyết đấu tranh, góp phần làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đoàn kết, thống nhất “Ý Đảng – long dân” là phương thức hữu hiệu, đẩy lùi mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, Nhà nước và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân ta./.

Luận điệu giả nhân, giả nghĩa của Nguyễn Quang A

 

Luận điệu giả nhân, giả nghĩa của Nguyễn Quang A

Vừa qua, trên trang “Rfavietnam” có bài viết: “Quốc hội và Hội đồng nhân dân giám sát, làm sao để không chỉ là hình thức” của  Nguyễn Quang A cho rằng “ở Việt Nam Quốc hội không làm được vai trò giám sát… Quốc hội cũng không đủ chuyên môn để giám sát”. Đây là một nhận định đầy suy diễn với luận điệu giả nhân, giả nghĩa nhằm mục đích xuyên tạc, hạ thấp vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam.

1. Cùng với chức năng lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát là một trong ba chức năng cơ bản của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Hiến pháp năm 2013 và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015 đã quy định và thể hiện rõ về hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân; trách nhiệm cửa cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt động giám sát.

Trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cũng nêu rõ về nguyên tắc và thẩm quyền giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân; quy định rất cụ thể về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Tại các kỳ họp, Quốc hội tiến hành giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước theo các phương thức như xem xét báo cáo công tác, chất vấn, giám sát văn bản, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra… Như vậy, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là rất rộng, trên các vấn đề như: Xem xét báo cáo của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân; Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Xem xét việc trả lời chất vấn, Báo cáo chuyên đề, Báo của Ủy ban lâm thời do Quốc hội lập để điều tra về một vấn đề nhất định; Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;…

2. Thực tiễn từ khi Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) được thành lập (01/1946) đến nay, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp luôn chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát; nhất là từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến nay, hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được triển khai đồng bộ, toàn diện, có nhiều điểm mới nổi bật. Quốc hội đã sử dụng các hình thức giám sát tối cao như: Xem xét báo cáo của các cơ quan nhà nước; chất vấn và trả lời chất vấn; giám sát chuyên đề; lấy phiếu tín nhiệm;… đạt hiệu quả, lan tỏa tinh thần hành động tích cực, góp phần làm chuyển biến toàn diện cả về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và vấn đề được giám sát.

Tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV đã đánh giá về việc đổi mới, nhất là  về phạm vi và cách thức tiến hành chất vấn. Lần đầu tiên trong nhiệm kỳ khóa XV, Thủ tướng, tất cả các Phó Thủ tướng Chính phủ và 21 vị bộ trưởng, trưởng ngành đã trực tiếp trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Phạm vi chất vấn rộng, liên quan đến 4 nhóm lĩnh kinh tế tổng hợp; kinh tế ngành; nội chính, tư pháp; văn hóa, xã hội. Không chỉ thực hiện chuyên đề giám sát tối cao đối với những vấn đề đã thực hiện, có kết quả, Quốc hội còn giám sát các vấn đề đang được triển khai trên thực tiễn, như chuyên đề giám sát tối cao 03 chương trình mục tiêu quốc gia giúp Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đẩy nhanh tiến độ, chất lượng thực hiện các Chương trình.

Năm 2023, một phương thức giám sát quan trọng nữa đã được Quốc hội thực hiện đó là lấy phiếu tín nhiệm đối với những chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn. Lần đầu tiên, tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV đã thảo luận tại hội trường về Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri và thảo luận Báo cáo kết quả giám sát về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, được dư luận xã hội, cử tri ghi nhận, đánh giá cao. Kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 5, đã có 2.765 kiến nghị được tổng hợp, chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết; có 2.751 kiến nghị đã được giải quyết, trả lời cử tri, đạt 99,5%. Ngày 27/12/2023 Văn phòng Quốc hội tổ chức bình chọn 10 vấn đề, sự kiện tiêu biểu của Quốc hội Việt Nam năm 2023; các đại biểu tham dự đã bỏ phiếu thống nhất cao: “Hoạt động giám sát của Quốc hội được tăng cường với nhiều cải tiến, đổi mới nhằm kiến tạo phát triển, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc xây dựng và thực thi pháp luật” là một trong 10 vấn đề, sự kiện tiêu biểu.

Như vậy, luận điệu suy diễn, xuyên tạc của Nguyễn Quang A và các thế lực thù địch nêu trên là một mưu đồ chống phá Quốc hội và cách mạng Việt Nam. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận diện và kiên quyết đấu tranh./.

Bác bỏ luận điệu sai trái và nguy hiểm của Minh Văn

 

Bác bỏ luận điệu sai trái và nguy hiểm của Minh Văn


Một trong những âm mưu thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động là tập hợp lực lượng, huấn luyện, đào tạo, xây dựng lực lượng chống đối, hình thành các hội nhóm tại Việt Nam, khi có thời cơ, thực hiện “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”. Để thực hiện dã tâm, mưu đồ đen tối, gần đây trang “Hung-viet – Minh Văn viết: Một đất nước mà Hiến pháp quy định Công nhân là giai cấp lãnh đạo đất nước mà giới công nhân không có quyền xuống đường tuần hành kỷ niệm ngày 1/5 sao? Hay giai cấp Công Nhân Việt Nam ở vai trò lãnh đạo nên quên rằng mình xuất thân là công nhân?… Đây là luận điệu kích động, xuyên tạc hết sức nguy hiểm cần phải lên án và bác bỏ. Bởi:

1. Ngày Quốc tế Lao động 1/5 là ngày lễ kỉ niệm của phong trào công nhân quốc tế là người lao động vào ngày 1/5 hàng năm. Đây là ngày hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta, ngày đoàn kết giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5/2024 là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử đấu tranh, xây dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân; khẳng định vai trò, vị trí, những đóng góp to lớn của lực lực lượng công nhân và người lao động cho sự phát triển của xã hội. Cũng là dịp để tôn vinh những người lao động, những người đã vất vả lao động, đóng góp vào sự phát triển của đất nước; là dịp để người lao động được nghỉ ngơi, gia đình sum họp, và tôn vinh, ghi nhận những đóng góp của họ.

2. Việt Nam không kỳ thị, không ngăn cản việc người dân lập hội, nhóm, tham gia các tổ chức. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Tuy nhiên, tất cả các hội nhóm, đoàn thể đều phải tuân thủ nghiêm các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động núp bóng hội, nhóm, thành lập “xã hội dân sự” để sản sinh ra các hội, nhóm chống đối đều là vi phạm, cần phải chấn chỉnh, loại bỏ.

3. Với mưu đồ chống phá Việt Nam, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, các thế lực thù địch, chống đối, cơ hội chính trị đang móc nối, nhen nhóm hình thành các hội, nhóm, tổ chức “xã hội dân sự”. Dưới sự chống lưng giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các hội, nhóm trong nước trực tiếp tiến hành các hoạt động tuần hành, biểu tình, chống phá, tấn công chính quyền, trở thành nơi tập hợp những thành phần bất hảo, hình thành lực lượng đối lập, sẵn sàng tiến đến bạo loạn lật đổ theo hình thức “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”.

Qua chiêu bài “bày tỏ nguyện vọng” để tác động, kích động xuống đường tuần hành, đòi quyền lợi, đòi tăng lương, ủng hộ “Công đoàn độc lập” tồn tại và phát triển, hình thành xu hướng hoạt động độc lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua môi trường “xã hội dân sự” để lôi kéo công nhân, nhân dân lao động vào các hoạt động dưới danh nghĩa “vì mục tiêu chung”, “thúc đẩy sự tham gia của người dân vào công việc của chính quyền”; với chiêu bài phản biện chính sách, phản biện xã hội, đấu tranh chống tham nhũng, đòi quyền lợi, ủng hộ “Công đoàn độc lập”,… để hình thành tâm lý phản kháng, ý thức đấu tranh của quần chúng chống lại các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, gây mất ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam.

Vì thế, toàn thể nhân dân phải luôn nêu cao cảnh giác để nhận diện và vạch trần bản chất của các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay. Phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao nhận thức, tích cực chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chủ động, linh hoạt, nhạy bén nắm bắt tình hình thế giới, khu vực và trong nước; vận dụng sáng tạo các hình thức đấu tranh, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước./.

Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới

 

Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới


Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm nhận thấy sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo khẳng định: Ý chí của nhân dân chính là thành trì vững chắc nhất để giữ nước. Nguyễn Trãi lấy tư tưởng “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” làm nền tảng để phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân, đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Trung thành vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng, củng cố ngày càng vững chắc. Nền tảng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Đồng thời, sức mạnh ấy được tạo nên từ mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và nhân dân; niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Đó còn là sự đoàn kết trong Đảng, giữa các giai tầng xã hội, cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là sự đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.

Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình mới, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc. Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số… Để kịp thời khắc phục những tồn tại trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023, Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết xác định mục tiêu: “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hiện thực hóa mục tiêu đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành cần chủ động tổ chức tốt việc nghiên cứu, học tập và quán triệt đầy đủ, sâu sắc nội dung cốt lõi của Nghị quyết cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Triển khai thực hiện Nghị quyết bằng các chương trình, kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế của cơ quan, đơn vị, địa phương; đồng thời làm tốt một số nội dung biện pháp sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc; về vị trí, tầm quan trọng của phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Từ đó, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng và hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, và nhân dân về củng cố, tăng cường và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, kiên quyết, kiên trì thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh theo các Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, khoá XII và Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách về phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật phải xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giải quyết hài hoà lợi ích trong xã hội.

Bốn là, thực hiện tốt công tác nắm bắt dư luận xã hội, chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp, kịp thời giải quyết những tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, chức sắc, chức việc trong các tôn giáo góp phần tuyên truyền, vận động, tạo đồng thuận xã hội, động viên nhân dân tham gia tích cực tham gia phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của địa phương, đất nước; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng cơ chế phù hợp để nhân dân tham gia ý kiến vào quá trình hoạch định chính sách, quyết định những vấn đề lớn và quan trọng của đất nước, những vấn đề có liên quan mật thiết đến cuộc sống của người dân. Các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước nêu cao tinh thần cầu thị, tiếp thu, trách nhiệm thông tin, giải trình của các cơ quan nhà nước đối với những kiến nghị, đề xuất của nhân dân theo quy định.

Cùng với triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Trung ương, nhân dân ta cần nâng cao cảnh giác, tỉnh táo trước những luận điệu vu khống, xuyên tạc của các phần tử cơ hội, phản động muốn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm làm cho đất nước ta, dân tộc ta suy yếu “từ bên trong”. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình hiện nay, chỉ có “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” mới tạo nên sức mạnh vô địch, giúp dân tộc ta, đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức để phát triển toàn diện, bền vững./.

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc của Thiên Hạ Luận

 

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc của Thiên Hạ Luận


Lợi dụng kết quả công tác phòng chống tham nhũng và công tác cán bộ của Việt Nam gần đây, trên diễn đàn phản động VOA tiếng Việt phát tán bài viết: “Bắt bao nhiêu, trong bao lâu thì hết cán bộ thoái hoá, biến chất?” của Thiên Hạ Luận. Với góc nhìn thiển cận và mưu đồ chống phá rõ ràng, y cho rằng: nhất quán chủ trương, công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam không hiệu quả, nguyên nhân là do Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền trong công tác cán bộ. Luận điệu này cho thấy, Thiên Hạ Luận không hiểu gì về quan điểm của Đảng ta trong phòng, chống tham nhũng và công tác cán bộ.

1. Đảng ta khẳng định, tham nhũng là: “quốc nạn”, là “giặc nội xâm”, phải lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt vấn đề phòng, chống tham nhũng. Đảng ta luôn kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng với quyết tâm chính trị ngày càng cao, hành động ngày càng mạnh mẽ và hiệu quả hơn, với phương châm, “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Phòng, chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những năm qua, Trung ương đã thi hành kỷ luật và cơ quan điều tra đã ra lệnh bắt giam, khởi tố hàng loạt cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương quản lý có hành vi tham nhũng. Đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam đã trở thành phong trào, xu thế và được làm có bài bản, có sự tham gia của cả hệ thống chính trị; công tác phát hiện, xử lý tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.

2. Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng chủ động phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn những đảng viên ưu tú, người ngoài Đảng có đủ phẩm chất, năng lực để giới thiệu vào cơ quan Nhà nước thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọ. Đội ngũ này được bố trí trong các cơ quan Nhà nước, nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở, nhằm phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Công tác, đào tạo, rèn luyện, xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ được gắn liền với trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức Đảng và cá nhân người đứng đầu, người đứng đầu đội ngũ luôn xứng đáng là công bộc của nhân dân.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đảng cũng thừa nhận những hạn chế trong công tác cán bộ đó là: những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung còn ít. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách nhiệm, chưa thực sự gương mẫu. Chính vì vậy, Đảng xác định cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển đất nước. Chú trọng tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tạo môi trường, điều kiện làm việc tốt để thúc đẩy cán bộ đổi mới sáng tạo. Khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đồng thời có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân. Công tác cán bộ luôn có vào, có ra, có lên, có xuống. Chỉ có những cán bộ có đủ phẩm chất năng lực, uy tín, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân mới được bổ nhiệm, đề bạt đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Việc các thế lực thù địch, lợi dụng kết quả trong phòng, chống tham nhũng và công tác cán bộ để xuyên tạc, nói xấu chế độ chính trị ở Việt Nam là đi ngược lại chủ trương, đường lối, quan điểm, của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi ích nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta. Do đó, chúng ta cần nêu cao cảnh giác, nhận diện chính xác và kiên quyết đấu tranh, góp phần làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đoàn kết, thống nhất “Ý Đảng – long dân” là phương thức hữu hiệu, đẩy lùi mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, Nhà nước và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân ta./.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: YÊU BÁC, LÒNG TA TRONG SÁNG HƠN!

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: YÊU BÁC, LÒNG TA TRONG SÁNG HƠN!

     Cứ mỗi độ tháng năm về, đồng bào ta ở trong và ngoài nước, cùng với bạn bè quốc tế lại có dịp nhắc tới Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới với lòng khâm phục và kính yêu vô hạn!

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kể từ ngày đó, đông đảo đồng bào trong nước và bè bạn quốc tế biết đến Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam và biết đến ngày 19-5 là sinh nhật của Người. Năm 1946 là năm kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên.

Năm nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm Ngày sinh của Bác vào dịp Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII vừa kết thúc, với quyết tâm tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Lúc này, Đảng ta đang quyết tâm thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Ðảng để "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"; đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng Đảng gắn việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Cả cuộc đời 79 mùa Xuân, cuộc đời vì dân, vì nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại di sản vô cùng quý báu là tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người. Đó chính là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa nhân loại; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi theo. Sinh thời, Bác sống rất giản dị, từ ăn, mặc, ở cho đến mọi sinh hoạt hằng ngày. Ngay khi đã là Chủ tịch nước, Bác luôn nêu tấm gương vô cùng mẫu mực về đạo đức cách mạng. 

Có biết bao câu chuyện chân thực và cảm động về tấm gương đạo đức của Bác đã trở thành biểu tượng văn hóa, đạo đức, văn minh của một vị Chủ tịch nước, một lãnh tụ của Đảng, của nhân dân. Câu chuyện có đồng chí đề nghị Bác bỏ đi chiếc áo vá, nhưng Bác không cho bỏ. Bác nói: “Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”. Bác mặc bộ quần áo ka ki đã sờn cổ, sờn tay, xin được thay bộ khác, Bác bảo: “Nếu thi sang thì thua, thi tiết kiệm thì thắng”. Bác mặc như thế phù hợp với hoàn cảnh của đất nước, của dân không phải thay... Nhớ lại, lúc sinh thời, thường cứ đến tháng 5 sinh nhật, Bác nói với thư ký của Bác bố trí những chuyến công tác xa để Bác tránh chúc tụng, lễ hội. Bác không muốn cái gì riêng cho mình cả, đời Bác hóa thân tất cả vào dân tộc và nhân loại. Cả cuộc đời Bác Hồ kính yêu là cả cuộc đời: “Nâng niu tất cả chỉ quên mình”...

Cuộc sống của Bác giản dị biết bao, tâm hồn vĩ đại biết bao, nhân cách vĩ đại biết chừng nào! Tâm hồn Bác không chỉ lộng gió thời đại, mà còn rất gần gũi yêu thương. Tháng Năm nhớ Bác, nói điều cụ thể trên đây về cuộc sống giản dị, tiết kiệm của Người đứng đầu một đất nước để chúng ta hiểu sâu sắc rằng, bất cứ ai, dù trên cương vị nào, lứa tuổi nào, cũng đều cần phải và đều có thể học và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vừa là nhu cầu tự hoàn thiện tư cách, đạo đức của mỗi cá nhân, vừa là yêu cầu đối với toàn xã hội, cảm hóa đến mọi người xung quanh, đến cuộc đời.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng do Người sáng lập đã trải qua 94 năm lịch sử. Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết Đảng kiểu mới của Lênin vào thực tiễn xây dựng Đảng, rèn luyện Đảng ta thành một Đảng cách mạng chân chính, không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiên phong của dân tộc và nhân dân lao động. Một trong những ngọn nguồn làm nên sức mạnh của Đảng, của cách mạng Việt Nam, là sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Đảng vì dân mà tồn tại và chiến đấu hy sinh nên nhân dân một lòng tin tưởng vào Đảng, đi theo lý tưởng, mục tiêu mà Đảng đã vạch ra: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Bác Hồ từng chỉ rõ: "Một Ðảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Ðảng hỏng. Một Ðảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Ðảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"[1]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết bài báo quan trọng “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nhắc nhở toàn Đảng phấn đấu rèn luyện về đạo đức. Vì vậy, muốn Ðảng mạnh, được nhân dân tin tưởng, yêu quý, nhất định chúng ta phải tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 05 gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Ðảng, nhất là việc sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót một cách quyết liệt, dứt điểm.

Noi gương Bác, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự nêu gương sáng về đạo đức, lối sống, gần dân, lắng nghe dân và có trách nhiệm với dân. Một tấm gương điển hình, một hành động gương mẫu có ý nghĩa hơn gấp trăm lần so với những lời giáo điều, sáo rỗng. Trong lúc này, việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Ðảng, mối quan hệ máu thịt giữa Ðảng với dân là nhân tố hàng đầu nhằm nâng cao sức mạnh của Ðảng, là môi trường để thử thách, rèn luyện và sàng lọc cán bộ, lựa chọn đúng những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng tham gia bộ máy lãnh đạo Ðảng và Nhà nước.

Như muôn mạch nước nhỏ hòa thành dòng sông lớn, mỗi ngày, mỗi người hãy cố gắng làm thêm một việc tốt, có ích cho mình, cho cơ quan, đơn vị, có lợi cho dân, cho nước. Nếu ai cũng làm được như vậy thì chắc chắn sẽ tạo thành một động lực mạnh mẽ, làm chuyển biến nhanh hơn nữa, tích cực hơn nữa mọi mặt của đời sống xã hội. Và nếu làm được như thế, chúng ta tin chắc rằng việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhất định sẽ thu được kết quả thiết thực, to lớn hơn khi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, coi đó là danh dự, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.

Chúng tôi xin kết thúc bài viết bằng hai câu thơ nổi tiếng của Nhà thơ Tố Hữu “Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn/ Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi…”. Lời thơ ấy đã nói lên tình cảm và nguyện ước của mỗi chúng ta. Đó cũng chính là lời nhắn nhủ, nhắc nhở suy nghĩ và hành động của mỗi chúng ta hôm nay phải tu dưỡng, rèn luyện bản thân mình trong cuộc sống, xứng đáng với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại./.
[1] (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011, Tập 5, tr 301)./.
Ảnh: Bác Hồ đi thăm bà con nông dân tỉnh Bắc Cạn đang thu hoạch lúa mùa năm 1950.
Yêu nước ST & SC.

Trách nhiệm của Quân đội nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số

 

Trách nhiệm của Quân đội nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số

 

Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số là một nhiệm vụ chính trị của QĐNDVN nhằm tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết tốt vấn đề trên, trong tình hình hiện nay, QĐND cần thực hiện một số nội dung sau:

Một là, Thấy được sự cần thiết phải nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTCTCS vùng dân tộc thiểu số. Trước yêu cầu ngày càng cao đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội ở khu vực miền núi trong thời kỳ mới, việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở các xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc là vấn đề mang tính khách quan, cấp thiết, nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị được giao. 

Hai là, làm cho cán bộ, chiến sỹ trong quân đội nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm và hành động sai trái của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo.  Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Quân đội trong tham gia xây dựng HTCTCS vùng DTTS.

Ba là, Xác định rõ nhiệm vụ, nội dung Quân đội tham gia xây dựng HTCTCS vùng DTTS: Tham gia củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCTCS; bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, chăm lo công tác phát triển đảng viên, phát hiện và bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho địa phương; tập trung xây dựng cơ sở xã hội của HTCTCS, trọng tâm là xây dựng cộng đồng dân cư, thôn, bản...Để xây dựng cơ sở xã hội của HTCTCS cần tập trung vào những nội dung: Phát triển KT - XH, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội và giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương; xây dựng cơ sở chính trị - tinh thần trong nhân dân, thế trận lòng dân, niềm tin của nhân dân đối với HTCTCS, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ ĐÚNG ĐẮN

 

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ ĐÚNG ĐẮN


Vừa qua, trên trang mạng xã hội, đăng tải bài viết: “Sự ngụy biện của đám tuyên giáo” của Phạm Nhật Bình. Trong suốt bài viết, Bình “khéo tìm cách” tung tin, bôi xấu những người làm công tác tuyên giáo, ngụy tạo các sự kiện lịch sử, công kích chế độ nhất nguyên chính trị; đồng thời tuyên truyền và đòi “đa đảng” ở Việt Nam.

Thực chất, đây cũng chỉ là chiêu trò cũ – phủ nhận nhận thành tựu cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, hòng gây sự phân tâm trong xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là mưu đồ hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch, cần phải nhận diện và đấu tranh. Thực tiễn lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc và thành tựu trong công cuộc đổi mới đã chứng minh:

1. Lịch sử chứng minh, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam  lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh giải phóng dân tộc thắng lợi.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) là một tất yếu lịch sử và cũng từ đây, chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc.

Trong thời kỳ 1930 – 1945,  lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Mặt Trận Việt Minh đã lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành chính quyền mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc – kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội – đó chính là công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong thời kỳ (1945-1975), bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại nhiều đảng phái như: Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam, Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội… đây là cuộc “thử lửa” trong cuộc trường chinh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, một lần nữa lịch sử và nhân dân lại lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Và thực tế, với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 – 1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) thắng lợi đã chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa đất nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, đây là minh chứng rõ nét nhất về vai trò hoạch định chủ trương, đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn trong lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Thực tế sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc đổi mới đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên nhiều lĩnh vực. Đất nước Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chịu hậu quả tàn khốc của hai cuộc chiến tranh, đời sống khó khăn, bị bao vây cấm vận đã tiến hành đổi mới thành công, trở thành nước có thu nhập trung bình, nền kinh tế đang phát triển năng động, tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được đảm bảo, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Như vậy, cái mà ông Bình gọi là “độc đảng” đưa đất nước “không ngóc đầu lên được” – mới thực sự là ngụy biện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, đạt được tiêu chí cao nhất đối với một đảng cầm quyền đó là: Chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hoá, xã hội phát triển bền vững, an sinh xã hội được bảo đảm. Đúng như, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn” và “Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng”./.

Bảo đảm an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

 

Bảo đảm an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

            Bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó lực lượng Công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt.

          Sau gần 40 năm đổi mới, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã đổi mới cả trong tư duy, nhận thức và trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN.

          Bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi nước ta là thành viên của WTO có yêu cầu mới; bên cạnh thời cơ, thuận lợi, cũng nảy sinh không ít nguy cơ, thách thức. Về kinh tế, thách thức lớn nhất là vấn đề cạnh tranh quốc tế, mặt trái của toàn cầu hoá kinh tế cũng làm xuất hiện và làm sâu sắc những vấn đề xã hội. Về văn hoá-xã hội, đó là sự du nhập vào nước ta lối sống, văn hoá, đạo đức không lành mạnh, thực dụng. Về quốc phòng-an ninh (QP-AN), đó là mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế với yêu cầu tăng cường tiềm lực QP-AN, là việc lợi dụng mở cửa, hợp tác, đầu tư... để xâm hại QP-AN…

          Đảng ta đã chỉ rõ, hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với phát triển KT-XH, tăng cường QP-AN, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đây thực chất là giải quyết hài hoà mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới, cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp:

          Một là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của toàn dân, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, địa phương đối với nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới. Bảo vệ ANQG là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng, Nhà nước lãnh đạo, quản lý trực tiếp, toàn diện. Vì vậy, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, vận động quần chúng tích cực tham gia sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia là một nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Công tác giáo dục phải tiến hành thường xuyên, toàn diện, kết hợp nhiều nội dung, hình thức, phương pháp, nhưng tập trung có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ, chức trách được giao. Trong đó, phải hết sức chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, kiến thức QP-AN cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các địa phương, đoàn thể, tổ chức xã hội.

          Hai là, nâng cao hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Đây là vấn đề có tính quyết định thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các bộ, ngành, địa phương bên cạnh việc tích cực, chủ động trong chiến lược, kế hoạch, chăm lo cải cách quản lý, hiện đại hoá, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, cũng cần nắm vững luật lệ kinh tế của WTO, tích cực khai thác, mở rộng thị trường cả ở trong nước và nước ngoài, gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN, coi đây là hai mặt có quan hệ mật thiết, không thể tách rời.

          Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò nòng cốt, xung kích của các lực lượng Công an, Quân đội trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sức mạnh bảo vệ ANQG là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, quốc phòng, quân sự, đối ngoại... Bảo vệ an ninh quốc gia là nghĩa vụ, trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương, của toàn dân, trong đó lực lượng công an, quân đội là nòng cốt; do đó, nó phải được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của các cấp uỷ đảng, chính quyền từ Trung ương tới cơ sở.