Thứ Tư, 28 tháng 8, 2024

Họ lại “diễn” những luận điệu cũ rích

 

Họ lại “diễn” những luận điệu cũ rích

       - Trong lúc nhân dân cả nước ta tổ chức kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2024) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2024) với nhiều hoạt động thi đua sôi nổi, hành động thiết thực, thì trên các diễn đàn mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, nhằm xuyên tạc, phủ nhận sự kiện lịch sử này, cổ súy cho mưu đồ xét lại lịch sử, tạo cớ để chống phá cách mạng nước ta. Nội dung chúng đưa ra không có gì mới, vẫn là những luận điệu cũ rích, rằng: Cách mạng tháng Tám năm 1945 là “sai lầm lịch sử”! Cách mạng tháng Tám đã “đi ngược xu thế lịch sử”, đó “không phải là cách mạng của nhân dân”, mà chỉ là sự “thay đổi” từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”, v.v. Trước những luận điệu xảo trá này, một lần nữa chúng ta cần nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện, khoa học về thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta trong Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cần khẳng định rõ, Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng hợp quy luật, phù hợp với xu thế thời đại, xu thế phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng: sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, giai cấp công nhân trở thành giai cấp trung tâm của thời đại, cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới đã có sự phát triển mới, với diện mạo mới. Và, cách mạng dân tộc dân chủ muốn thành công và đi đến triệt để, nhất thiết phải dựa trên lập trường của giai cấp công nhân, phải đi theo quỹ đạo và là bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản. Một cuộc cách mạng của thời đại mới muốn thắng lợi phải thật sự là một cuộc cách mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, được chuẩn bị và lãnh đạo bởi một đảng tiên phong cách mạng[1]. Đó là xu thế khách quan của thời đại !

Đối với Việt Nam lúc này, một con đường” để cứu nước, cứu dân, trong bối cảnh thời đại mới, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, không thể nào khác là con đường cách mạng vô sản. Lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải dựa vào lực lượng của toàn dân, nòng cốt là liên minh công nông, do đảng của giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo; đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời với đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược. Nhân dân Việt Nam quyết đứng lên tự mình giải phóng cho mình, tự mình làm chủ và thay đổi cuộc đời của mình, xóa bỏ mọi xiềng xích phong kiến, thực dânchứ không phải mong muốn lại rơi vào vòng nô lệ, cứ luẩn quẩn trong vòng bảo hộ của ngoại bang. Cách mạng là tất yếu. Việc làm đó là tất yếu phải làm và phải làm kiên quyết, kịp thời, nhanh chóng và triệt để. Nhiệm vụ giai cấp được biểu hiện ở nhiệm vụ dân tộc; nhiệm vụ dân tộc được giải quyết theo lập trường của giai cấp công nhân. Đó là mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là xu thế của lịch sử dân tộc trong sự phù hợp với xu thế vận động khách quan của thời đại.

Tháng Tám năm 1945, Cách mạng thành công, đã đạt được mục đích giành chính quyền, mục đích trực tiếp của mọi cuộc cách mạng; nhưng đó mới chỉ là sự mở đầu. Công việc cơ bản, quan trọng của cách mạng là xây dựng chính quyền mới, củng cố và sử dụng chính quyền ấy vào tổ chức, cai quản và xây dựng chế độ xã hội mới, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho quảng đại quần chúng nhân dân. Tính chất phù hợp, triệt để và tiến bộ của Cách mạng tháng Tám thể hiện sâu đậm ở chỗ đó. Nó hoàn toàn không phải là sự “sang tên đổi chủ” từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị” như sự rắp tâm xuyên tạc của các thế lực thù địch. Nó xóa tan những ảo tưởng về một chính phủ dựa “vào lòng thành thực của nước Đại Nhật Bản” để “mong nền móng xây đắp được vững vàng để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu”[2]. Thành tựu vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở chỗ, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân lao động Việt Nam từ thân phận bị nô lệ, bị áp bức bóc lột đã đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”giành chính quyền, vươn lên làm chủ, đứng ra tổ chức và cai quản xã hội mới. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập lên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Đó là cuộc cách mạng không phải thay đổi chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc lột khác, mà là cuộc cách mạng thủ tiêu chế độ bóc lột, áp bức, bất công, đưa nhân dân lao động lên làm chủ, thay đổi căn bản địa vị của họ trong xã hội.

Thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945 tiếp tục được củng cố và phát huy trong gần tám thập kỷ qua là cả quãng thời gian lịch sử không ngừng nâng cao và hoàn thiện mệnh đề “dân là chủ” trong xã hội Việt Nam, không ngừng mở rộng quyền làm chủ của nhân dân. Tính chất tiến bộ, sâu sắc của các mệnh đề “của nhân dân”, “do nhân dân” và “vì nhân dân” mà Cách mạng tháng Tám mang tải, thể hiện tập trung ở chỗ đó. Một cuộc cách mạng nhân dân như thế, một sự nghiệp giải phóng sâu sắc và triệt để như thế sao lại là “sai lầm của lịch sử”, là “việc không nên làm” như có những người cố rắp tâm xuyên tạc./.

 

Đa nguyên chính trị không bao giờ là lựa chọn của Việt Nam

 

Đa nguyên chính trị không bao giờ là lựa chọn của Việt Nam

         - Kêu gọi Việt Nam đi theo con đường đa nguyên, đa đảng là luận điệu quen thuộc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Mới đây, mượn cớ luận bàn, “đánh giá” về di sản của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bài viết “Gia tài” Nguyễn Phú Trọng của Âu Dương Tuệ đã lớn tiếng kêu gọi Việt Nam hãy từ bỏ ý thức hệ Mác – Lênin, tiến lên theo con đường dân chủ đa nguyên. Cần khẳng định: đây là luận điệu hết sức sai trái, sặc mùi phản động của Âu Dương Tuệ và các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, cần đấu tranh, vạch trần, bác bỏ.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Điều này được chính lịch sử dân tộc minh chứng. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tính mốc thời điểm từ ngày 01/9/1858, giới sử học thống kê đã có hơn 300 cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân nổ ra để phản kháng ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp xâm lược, nhưng cuối cùng tất cả hơn 300 cuộc đấu tranh đó đều thất bại, đều bị thực dân Pháp “dìm trong biển máu”. Chỉ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi, mở đầu là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954) và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc năm 1975 đã làm cho cả thế giới sửng sốt, ngỡ ngàng, bàng hoàng, phải thốt lên rằng “Why Vietnam”.

Lịch sử cũng minh chứng, trong giai đoạn 1945-1975, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng song song tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam (ra đời năm 1944) và Đảng Xã hội Việt Nam (ra đời năm 1946) cả hai đảng này đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, đến năm 1988, tự nhận thấy không còn vai trò gì với dân tộc nên đã tuyên bố tự giải tán. Ngoài ra, trong thời gian này, còn có sự tồn tại của nhiều đảng phái thân Pháp, thân Mỹ công khai đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng cũng chính thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh không có một đảng nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ trình độ, năng lực, bản lĩnh và trí tuệ để có thể lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành công. Vậy thì lý do gì, hà cớ gì khi cách mạng thành công, chúng ta giành được chính quyền rồi lại trao chính quyền ấy vào tay một đảng phái khác?

Từ sau năm 1975 đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện. Với bản lĩnh, trí tuệ của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một nước có trình độ phát triển trung bình. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn hóa, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền. Những thành tựu đó một lần nữa khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ có khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước trên con đường đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Chúng ta đều biết rằng trên thế giới hiện nay, có không ít những nước đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm. Như ở Việt Nam hiện nay, thực hiện chế độ một đảng duy nhất cầm quyền nhưng dân chủ luôn được đảm bảo và phát huy. Bởi vì mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đó cũng là ý chí, khát vọng cháy bỏng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, chúng ta có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát triển, tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhVì vậy, đa đảng và đa nguyên chính trị không bao giờ là lựa chọn của Việt Nam!

Họ lại “diễn” những luận điệu cũ rích

 

Họ lại “diễn” những luận điệu cũ rích

  - Trong lúc nhân dân cả nước ta tổ chức kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2024) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2024) với nhiều hoạt động thi đua sôi nổi, hành động thiết thực, thì trên các diễn đàn mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, nhằm xuyên tạc, phủ nhận sự kiện lịch sử này, cổ súy cho mưu đồ xét lại lịch sử, tạo cớ để chống phá cách mạng nước ta. Nội dung chúng đưa ra không có gì mới, vẫn là những luận điệu cũ rích, rằng: Cách mạng tháng Tám năm 1945 là “sai lầm lịch sử”! Cách mạng tháng Tám đã “đi ngược xu thế lịch sử”, đó “không phải là cách mạng của nhân dân”, mà chỉ là sự “thay đổi” từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”, v.v. Trước những luận điệu xảo trá này, một lần nữa chúng ta cần nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện, khoa học về thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta trong Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cần khẳng định rõ, Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng hợp quy luật, phù hợp với xu thế thời đại, xu thế phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng: sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, giai cấp công nhân trở thành giai cấp trung tâm của thời đại, cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới đã có sự phát triển mới, với diện mạo mới. Và, cách mạng dân tộc dân chủ muốn thành công và đi đến triệt để, nhất thiết phải dựa trên lập trường của giai cấp công nhân, phải đi theo quỹ đạo và là bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản. Một cuộc cách mạng của thời đại mới muốn thắng lợi phải thật sự là một cuộc cách mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, được chuẩn bị và lãnh đạo bởi một đảng tiên phong cách mạng[1]. Đó là xu thế khách quan của thời đại !

Đối với Việt Nam lúc này, một con đường” để cứu nước, cứu dân, trong bối cảnh thời đại mới, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, không thể nào khác là con đường cách mạng vô sản. Lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải dựa vào lực lượng của toàn dân, nòng cốt là liên minh công nông, do đảng của giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo; đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời với đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược. Nhân dân Việt Nam quyết đứng lên tự mình giải phóng cho mình, tự mình làm chủ và thay đổi cuộc đời của mình, xóa bỏ mọi xiềng xích phong kiến, thực dânchứ không phải mong muốn lại rơi vào vòng nô lệ, cứ luẩn quẩn trong vòng bảo hộ của ngoại bang. Cách mạng là tất yếu. Việc làm đó là tất yếu phải làm và phải làm kiên quyết, kịp thời, nhanh chóng và triệt để. Nhiệm vụ giai cấp được biểu hiện ở nhiệm vụ dân tộc; nhiệm vụ dân tộc được giải quyết theo lập trường của giai cấp công nhân. Đó là mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là xu thế của lịch sử dân tộc trong sự phù hợp với xu thế vận động khách quan của thời đại.

Tháng Tám năm 1945, Cách mạng thành công, đã đạt được mục đích giành chính quyền, mục đích trực tiếp của mọi cuộc cách mạng; nhưng đó mới chỉ là sự mở đầu. Công việc cơ bản, quan trọng của cách mạng là xây dựng chính quyền mới, củng cố và sử dụng chính quyền ấy vào tổ chức, cai quản và xây dựng chế độ xã hội mới, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho quảng đại quần chúng nhân dân. Tính chất phù hợp, triệt để và tiến bộ của Cách mạng tháng Tám thể hiện sâu đậm ở chỗ đó. Nó hoàn toàn không phải là sự “sang tên đổi chủ” từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị” như sự rắp tâm xuyên tạc của các thế lực thù địch. Nó xóa tan những ảo tưởng về một chính phủ dựa “vào lòng thành thực của nước Đại Nhật Bản” để “mong nền móng xây đắp được vững vàng để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu”[2]. Thành tựu vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở chỗ, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân lao động Việt Nam từ thân phận bị nô lệ, bị áp bức bóc lột đã đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”giành chính quyền, vươn lên làm chủ, đứng ra tổ chức và cai quản xã hội mới. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập lên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Đó là cuộc cách mạng không phải thay đổi chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc lột khác, mà là cuộc cách mạng thủ tiêu chế độ bóc lột, áp bức, bất công, đưa nhân dân lao động lên làm chủ, thay đổi căn bản địa vị của họ trong xã hội.

Thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945 tiếp tục được củng cố và phát huy trong gần tám thập kỷ qua là cả quãng thời gian lịch sử không ngừng nâng cao và hoàn thiện mệnh đề “dân là chủ” trong xã hội Việt Nam, không ngừng mở rộng quyền làm chủ của nhân dân. Tính chất tiến bộ, sâu sắc của các mệnh đề “của nhân dân”, “do nhân dân” và “vì nhân dân” mà Cách mạng tháng Tám mang tải, thể hiện tập trung ở chỗ đó. Một cuộc cách mạng nhân dân như thế, một sự nghiệp giải phóng sâu sắc và triệt để như thế sao lại là “sai lầm của lịch sử”, là “việc không nên làm” như có những người cố rắp tâm xuyên tạc./.

 

Trò lợi dụng “việc nọ xọ việc kia” để kích động của Việt Tân

 

Trò lợi dụng “việc nọ xọ việc kia” để kích động của Việt Tân

        Lợi dụng việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ ban hành kết luận không công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường, ngày 12/8, trang facebook Việt Tân, đăng bài: “Nền kinh tế thị trường sân sau và định hướng của Bộ Chính trị”, để xuyên tạc nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quy chụp lý do là vì “Họ yêu cầu thông qua Công đoàn độc lập bao năm rồi sao không thông qua”! Đây là chiêu trò rất thâm hiểm kiểu “việc nọ xọ việc kia” nhằm kích động, đòi cho phép cái gọi là “công đoàn độc lập” sớm được thành lập công khai, hợp pháp ở Việt Nam.

Chúng ta đều biết, thực hiện các cam kết quốc tế trong các Hiệp định thương mại tự do, các công ước quốc tế về tiêu chuẩn lao động mà Việt Nam là thành viên và để nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức đại diện người lao động, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XIV) đã thông qua Bộ Luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021).

Bộ Luật này đã dành 01 chương riêng (Chương 13) để quy định về “Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở”; trong đó, xác định: tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua đối thoại, thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Thành phần, gồm: công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp chỉ có cấp cơ sở - cấp doanh nghiệp, không có hệ thống các cấp như tổ chức công đoàn.

Như vậy, tổ chức công đoàn và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có sự khác nhau về bản chất và mục đích. Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động,… đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp. Còn tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp được xác định là tổ chức xã hội đơn thuần, chỉ thực hiện chức năng đại diện bảo vệ quyền hợp pháp, lợi ích chính đáng của người lao động trong phạm vi quan hệ lao động.

Quy định của pháp luật rất rõ ràng như vậy, thế nhưng các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn luôn ráo riết tuyên truyền, lôi kéo công nhân và người lao động nhằm tập hợp lực lượng để cho ra đời cái gọi là tổ chức “công đoàn độc lập” ở Việt Nam. Họ cố tình đưa ra chiêu bài này để dụ dỗ, lôi kéo công nhân và người lao động Việt Nam, hình thành tổ chức mà bản chất không không hề bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân và người lao động, chỉ lấy đó là vỏ bọc cho mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Từng bước đi đến hình thành một tổ chức đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam và “thay thế” tổ chức công đoàn ở Việt Nam, tạo dựng lực lượng chính trị đối lập, kích động công nhân, người lao động tham gia các cuộc tụ tập đông người để bãi công, đình công, biểu tình trái pháp luật, chống phá Đảng, Nhà nước ta, tiến tới thực hiện mưu đồ thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.

Việc hình thành tổ chức mang danh “công đoàn độc lập”, “đại diện người lao động” nhưng không đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động với mục đích chống đối Đảng, Nhà nước thì không thể là một tổ chức chính danh, hợp pháp. Vì không là chính danh, nên chúng không dám công khai ra mắt mà chỉ ngấm ngầm kích động làm rối loạn xã hội, bất ổn đời sống nhân dân. Những gì họ rêu rao chỉ là “chiêu trò” mị dân, không bao giờ vì quyền lợi của người lao động. Vì vậy, “công đoàn độc lập” sẽ không thể thay thế vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam - một tổ chức mà xuyên xuốt 95 năm qua luôn đồng hành cùng giai cấp công nhân, người lao động Việt Nam; đã và đang thực hiện tốt các chức năng đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động.

Mỗi người dân Việt Nam, nhất là giai cấp công nhân và người lao động trong các doanh nghiệp cần cảnh giác, bình tĩnh, tỉnh táo trước chiêu trò kích động của Việt Tân và các thế lực thù địch để không bị mắc mưu, dẫn đến có hành vi vi phạm pháp luật; đồng thời, kiên quyết đấu tranh bác bỏ, làm phá sản chiêu trò kích động thâm hiểm này./.

Chân Trời Mới Media lại “lộng ngôn”

 

Chân Trời Mới Media lại “lộng ngôn”

      - Ngày 20/8, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng Status “Cứ mỗi lần người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam sang thăm Bắc Kinh là mỗi lần những người yêu nước chân chính quan ngại Việt Nam lại bị tròng thêm thòng lọng”. Đây là giọng điệu “lộng ngôn” quen thuộc của Chân Trời Mới Media cũng như các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Đảng, Nhà nước Việt Nam mỗi khi có hoạt động giao lưu, tiếp xúc thường xuyên giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; nhằm xuyên tạc, kích động, chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị gắn bó truyền thống đặc biệt lâu đời giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Như đã thông tin, nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và phu nhân, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm và phu nhân thăm cấp Nhà nước đến nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa từ ngày 18 - 20/8. Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên, có ý nghĩa hết sức quan trọng của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trên cương vị người đứng đầu Đảng, Nhà nước Việt Nam, thể hiện sự coi trọng cao và ưu tiên hàng đầu của hai Đảng, hai nước đối với quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, cho rằng đây là thời điểm quan trọng để hai nước đưa quan hệ song phương lên tầm cao mới, đi vào chiều sâu, thực chất trên mọi phương diện. 

Tiếp nối chuyến thăm chính thức Trung Quốc rất thành công của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (10/2022) và chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và phu nhân (12/2023), hai bên ra “Tuyên bố chung về việc tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược” theo định hướng “sáu hơn”, bao gồm: tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác quốc phòng - an ninh thực chất hơn, hợp tác thực chất sâu sắc hơn, nền tảng xã hội vững chắc hơn, phối hợp đa phương chặt chẽ hơn, kiểm soát và giải quyết tốt hơn bất đồng, đã mở ra chương mới cho quan hệ song phương. Từ đầu năm 2024 đến nay, quan hệ hai nước duy trì đà phát triển tích cực, không khí hợp tác lan tỏa mạnh mẽ đến các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân. Hai bên đều đánh giá quan hệ song phương đang ở mức độ sâu sắc, toàn diện, thực chất nhất từ trước đến nay. Hầu hết các lĩnh vực hợp tác đều đi vào thực chất và hiệu quả.

Về hợp tác thương mại, đầu tư, du lịch, Việt Nam duy trì vị trí là đối tác thương mại lớn nhất trong ASEAN, đối tác thương mại lớn thứ 5 của Trung Quốc xét theo tiêu chí quốc gia. Kim ngạch thương mại hai chiều năm 2023 đạt 171,9 tỉ USD; đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam đạt 4,47 tỉ USD với 707 dự án, là nhà đầu tư lớn thứ 4 về số vốn đăng ký và lớn nhất về số lượng dự án. Trong sáu tháng đầu năm 2024, Trung Quốc đứng thứ 5 với số vốn đăng ký đạt 1,299 tỉ USD, nhưng đứng đầu về số dự án cấp mới với 447 dự án. Lũy kế đến hết tháng 6/2024, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam 28,23 tỉ USD (đứng thứ 7/148 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam) với 4.667 dự án còn hiệu lực. Kim ngạch xuất nhập khẩu song phương đạt 94,5 tỷ USD (tăng 24,1%), trong đó ta xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 27,8 tỉ USD (tăng 5,3%); nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 66,7 tỉ USD (tăng 34,1%); nhập siêu từ Trung Quốc ở mức 38,9 tỉ USD (tăng 66,7%). Các nhà đầu tư Trung Quốc đã đầu tư vào 19/21 ngành kinh tế có đầu tư nước ngoài và tại 55/63 tỉnh thành Việt Nam. Sau 03 năm gián đoạn du lịch do đại dịch Covid-19, năm 2023, Việt Nam đã đón 1,75 triệu lượt khách Trung Quốc, đứng thứ 2 trong số các thị trường gửi khách đến Việt Nam. Từ đầu năm 2024, Việt Nam đón 2,14 triệu lượt khách Trung Quốc vào Việt Nam, chiếm 27,1% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam, đứng thứ 2 sau Hàn Quốc. Về biên giới lãnh thổ, tình hình biên giới trên đất liền và Vịnh Bắc Bộ tổng thể duy trì ổn định. Hai bên đang hướng đến tổ chức các hoạt động kỷ niệm 25 năm ký Hiệp ước Biên giới trên đất liền và 15 năm ký 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Tình hình Biển Đông mặc dù còn diễn biến phức tạp, nhưng cơ bản vẫn được kiểm soát; các cơ chế trao đổi, đàm phán giữa hai bên về vấn đề trên biển được duy trì thường xuyên.

Cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều rất mong đợi chuyến thăm và kỳ vọng sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp thông qua chuyến thăm, trở thành một mốc son mới, mở ra một giai đoạn phát triển mới cho quan hệ láng giềng hữu nghị, Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc. Chuyến thăm sẽ là dịp để các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc và Việt Nam kế thừa, tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, hữu nghị lâu đời giữa hai Đảng, hai nước, định hướng quan hệ Việt - Trung bước vào giai đoạn mới phát triển ngày càng ổn định, bền vững lâu dài, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng như trên thế giới.

Điều đó hoàn toàn bác bỏ giọng điệu “Việt Nam lại bị tròng thêm thòng lọng” mà Chân Trời Mới Media rêu rao, nhằm xuyên tạc mục đích, ý nghĩa hết sức quan trọng chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trên cương vị người đứng đầu Đảng, Nhà nước Việt Nam./.

Đa nguyên chính trị không bao giờ là lựa chọn của Việt Nam

 

Đa nguyên chính trị không bao giờ là lựa chọn của Việt Nam

      - Kêu gọi Việt Nam đi theo con đường đa nguyên, đa đảng là luận điệu quen thuộc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Mới đây, mượn cớ luận bàn, “đánh giá” về di sản của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bài viết “Gia tài” Nguyễn Phú Trọng của Âu Dương Tuệ đã lớn tiếng kêu gọi Việt Nam hãy từ bỏ ý thức hệ Mác – Lênin, tiến lên theo con đường dân chủ đa nguyên. Cần khẳng định: đây là luận điệu hết sức sai trái, sặc mùi phản động của Âu Dương Tuệ và các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, cần đấu tranh, vạch trần, bác bỏ.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Điều này được chính lịch sử dân tộc minh chứng. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tính mốc thời điểm từ ngày 01/9/1858, giới sử học thống kê đã có hơn 300 cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân nổ ra để phản kháng ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp xâm lược, nhưng cuối cùng tất cả hơn 300 cuộc đấu tranh đó đều thất bại, đều bị thực dân Pháp “dìm trong biển máu”. Chỉ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi, mở đầu là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954) và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc năm 1975 đã làm cho cả thế giới sửng sốt, ngỡ ngàng, bàng hoàng, phải thốt lên rằng “Why Vietnam”.

Lịch sử cũng minh chứng, trong giai đoạn 1945-1975, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng song song tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam (ra đời năm 1944) và Đảng Xã hội Việt Nam (ra đời năm 1946) cả hai đảng này đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, đến năm 1988, tự nhận thấy không còn vai trò gì với dân tộc nên đã tuyên bố tự giải tán. Ngoài ra, trong thời gian này, còn có sự tồn tại của nhiều đảng phái thân Pháp, thân Mỹ công khai đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng cũng chính thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh không có một đảng nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ trình độ, năng lực, bản lĩnh và trí tuệ để có thể lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành công. Vậy thì lý do gì, hà cớ gì khi cách mạng thành công, chúng ta giành được chính quyền rồi lại trao chính quyền ấy vào tay một đảng phái khác?

Từ sau năm 1975 đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện. Với bản lĩnh, trí tuệ của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một nước có trình độ phát triển trung bình. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn hóa, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền. Những thành tựu đó một lần nữa khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ có khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước trên con đường đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Chúng ta đều biết rằng trên thế giới hiện nay, có không ít những nước đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm. Như ở Việt Nam hiện nay, thực hiện chế độ một đảng duy nhất cầm quyền nhưng dân chủ luôn được đảm bảo và phát huy. Bởi vì mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đó cũng là ý chí, khát vọng cháy bỏng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, chúng ta có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát triển, tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhVì vậy, đa đảng và đa nguyên chính trị không bao giờ là lựa chọn của Việt Nam!

 

Có tật giật mình

 

Có tật giật mình

 – Trang facebook Đài RFA ngày 23/8 đăng bài: “An ninh mạng ở 63 tỉnh, thành: Gia tăng đàn áp?”, trong đó đăng tải một số ý kiến của những người tự xưng là “hoạt động xã hội, nhân quyền” cho rằng: “Công an phải tìm mọi cách triệt tiêu quyền tự do ngôn luận”; “lời tuyên chiến với quyền tự do ngôn luận của người dân”. Đây là thông tin hoàn toàn không chính xác, cố tình vu cáo Việt Nam vi phạm tự do ngôn luận, cần đấu tranh, bác bỏ.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến việc bảo đảm các quyền cơ bản của con người, của công dân; trong đó có quyền tự do ngôn luận. Điều này được quy định ngay trong Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật hiện hành và thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện. Qua đó, tạo cơ sở hành lang pháp lý để mọi người dân được tự do ngôn luận theo đúng quy định của pháp luật. Trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay có hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể,... từ Trung ương đến địa phương là nơi lắng nghe, tiếp thu, giải đáp những ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, với 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (trong đó có 319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan Đài phát thanh, truyền hình đang hoạt động trên cả nước chính là diễn đàn, cơ quan ngôn luận, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; thể hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.

Với việc người dân được tự do sử dụng internet, mạng xã hội nên đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia có số lượng người truy cập internet, sử dụng mạng xã hội cao trên thế giới. Theo Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, đến đầu năm 2024, Việt Nam có 78,44 triệu người sử dụng internet, tỉ lệ tiếp cận internet đạt 79,1%; có 72,70 triệu người sử dụng mạng xã hội, tương đương 73,3% tổng dân số. Tại thời điểm đầu năm 2024, Việt Nam có tổng cộng 168,5 triệu kết nối di động, tương đương 169,8% tổng dân số. Nhờ đó, đã góp phần quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển toàn diện cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao. Đây là thành tựu thực tế không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mang lại thì việc truy cập internet, sử dụng mạng xã hội đang đặt ra những thách thức, bất cập, khó khăn đối với công tác quản lý nhà nước. Các thế lực thù địch, phần tử phản động triệt để lợi dụng mạng xã hội, coi đây là “mảnh đất màu mỡ” để đăng tải, chia sẻ thông tin, bài viết, tài liệu chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, nhất là dịp đất nước diễn ra các sự kiện chính trị lớn, như: đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội,... thì cường độ, số lượng càng nhiều, nở rộ như “nấm mọc sau mưa”. Điều đó, buộc các cơ quan chức năng của Việt Nam phải yêu cầu Google, Facebook gỡ bỏ, vô hiệu hóa hàng nghìn video clip, bài viết, tài khoản cá nhân và fanpage có nội dung thông tin xấu độc, chống phá chế độ. Bên cạnh đó, bọn tội phạm còn lợi dụng không gian mạng để lừa đảo chiếm đoạt tiền của người dân. Theo số liệu của Bộ Công an, số tiền người dân bị các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt trên mạng trong năm 2023 tăng gấp rưỡi năm 2022, (tăng từ 8.000 lên 10.000 nghìn tỉ đồng) và số lượng các vụ án đã bị khởi tố vì tội lừa đảo trên không gian mạng gia tăng, lên đến 1.500 vụ.

Thực trạng này đã cho thấy việc kiểm soát, bảo đảm không gian mạng an toàn, lành mạnh cho người dân là cần thiết, tất yếu khách quan. Đã có đông đảo cử tri ý kiến cho rằng: Chính phủ cần tổ chức một lực lượng chống tội phạm trên không gian mạng nhiều hơn, bài bản, đầy đủ hơn để đủ sức ngăn chặn tội phạm này. Và, trong phiên chất vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới đây, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết đang đẩy mạnh việc thực hiện các biện pháp để chống tội phạm công nghệ cao; trong đó đã triển khai lực lượng an ninh mạng ở tất cả 63 tỉnh thành trong cả nước. Đây là biện pháp phù hợp, xuất phát từ thực tiễn để tăng cường bảo đảm an toàn cho công dân trên môi trường không gian mạng, được dư luận nhân dân đồng tình ủng hộ.

Vậy nhưng, các thế lực thù địch, phần tử phản động bấy lâu nay vẫn rình rập, lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ lại “có tật giật mình”. Chúng sợ rằng “đất diễn” lâu nay sẽ bị hạn chế, kiểm soát chặt chẽ nên lại diễn trò lu loa, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, ngăn chặn quyền tự do ngôn luận. Thật nực cười!

THỰC HÀNH TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH CHÍNH LÀ VIỆC "VÌ ĐẢNG, VÌ DÂN TỘC, VÌ GIAI CẤP, VÌ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN"

 

THỰC HÀNH TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH CHÍNH LÀ VIỆC "VÌ ĐẢNG, VÌ DÂN TỘC, VÌ GIAI CẤP, VÌ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN"


Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng có những cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao, mắc khuyết điểm, sai phạm, thậm chí bị kỷ luật là chúng ta đã có phần lơ là, chưa sử dụng thật hiệu quả công tác tự phê bình và phê bình để rồi dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, những thiệt hại khôn lường. Về cả lý luận và thực tiễn, muốn bớt đi sai lầm thì không được bỏ quên thứ “vũ khí sắc bén” này, bởi thực hành tự phê bình và phê bình chính là nguyên tắc của Đảng, là việc “vì Đảng, vì dân tộc, vì giai cấp, vì chủ nghĩa cộng sản”, như Bác Hồ khẳng định.
Đảng ta luôn đề cao tinh thần “tự chỉ trích”, tự phê bình và phê bình
Lẽ thường, không có sự hoàn hảo trên đời, với con người cũng như vậy. Thế nên, việc tự phê bình và phê bình luôn là cần thiết, để giúp nhau sửa sai, cùng nhau tiến bộ. V.I. Lê-nin cho rằng: “Tự phê bình là một việc tuyệt đối cần thiết cho hết thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống. Không gì tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn”(1). Người chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho đến nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học được cách khắc phục”(2).
Ngay từ khi mới thành lập, ngày 3-2-1930, Đảng ta đã đề cao tinh thần “tự chỉ trích” hết sức nghiêm túc. Chưa đầy một thập niên sau khi thành lập, tháng 7-1939, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Cừ, với bút danh Trí Cường, đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích”, in trong tập sách Dân chúng, vào thời điểm sự thắng thế của các phần tử tờ-rốt-kít(3) dẫn đến thất bại tạm thời của Mặt trận Dân chủ Đông Dương ở một số địa phương. Trong “Tự chỉ trích”, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ nhấn mạnh việc tự chỉ trích “thành thật và mạnh dạn” nhằm “thống nhất tư tưởng, một sự thống nhất thật sự, mạnh mẽ, dựa trên sự giác ngộ và trung thành của mọi người”(4). Người cộng sản chân chính “dẫu cho có sai lầm, có thất bại thì phải có can đảm ‘mở to mắt ra nhìn sự thật’, ‘phải chịu hoàn toàn trách nhiệm’...”(5). Tác phẩm “Tự chỉ trích” đã chuẩn bị về mặt lý luận và tư tưởng cho thành công của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1939, cũng như góp phần đặt nền móng về phương pháp luận trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về sau.
Đến Đại hội II (năm 1951), Đảng ta đã đưa vấn đề tự phê bình và phê bình vào Điều lệ Đảng. Điều đó cho thấy Đảng ta không bao giờ giấu giếm khuyết điểm, luôn sẵn sàng nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm nếu mắc phải và mạnh dạn, kiên trì khắc phục khiếm khuyết, hạn chế. Ngày 28-11-1959, đến dự và nói chuyện tại Hội nghị nghiên cứu Lịch sử Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta có một vũ khí sắc bén để làm cho đảng viên tiến bộ, làm cho Đảng ngày càng mạnh là tự phê bình và phê bình”(6). Tại Hội nghị, Người còn khẳng định: “Có hoạt động thì khó tránh khỏi khuyết điểm. Nhưng khi có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình, hoan nghênh người khác phê bình mình và kiên quyết sửa chữa. Chủ nghĩa cá nhân không dám tự phê bình, không muốn người ta phê bình mình, không kiên quyết sửa chữa. Vì vậy mà thoái bộ, chứ không tiến bộ được”(7)...
Trước đó, trong nhiều bài viết đăng trên Báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đề cập đến vai trò, tầm quan trọng của công tác tự chỉ trích, phê bình và tự phê bình. Trong bài báo “Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích” trên Báo Cứu quốc, số 51, ra ngày 26-9-1945, với bút danh Chiến Thắng, Người khẳng định: “Sau khi làm xong một công tác gì, hay sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm xem có chỗ nào nhầm lẫn, chỗ nào chưa đầy đủ, có được ưu điểm gì nên nhớ, được kinh nghiệm gì quý đáng ghi. Phải bỏ hẳn thái độ “xong việc rồi thì thôi”. Không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”(😎...
Chỉ qua những sự khẳng định, răn dạy ngắn gọn, súc tích ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đủ thấy toát lên ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác tự phê bình và phê bình. Rõ ràng là bất kể ai làm việc gì cũng có thể mắc sai lầm, chỉ những người không làm gì mới không phạm sai lầm mà thôi. Sai lầm, vì thế, là lẽ thường tình xảy ra trong đời sống hằng ngày, trong công việc. Sai lầm mắc phải do nhiều nguyên nhân, ví như sự chủ quan, thiếu hiểu biết, thiếu chín chắn, sự nóng vội, mất bình tĩnh, sự chuyên quyền, độc đoán, không lắng nghe tham mưu, góp ý, không vì lợi ích tập thể...
Sai lầm thường không lặp lại nếu chúng ta biết rút kinh nghiệm, biết tiếp thu sự góp ý và quyết tâm sửa chữa. Vì thế, sai lầm không đáng hổ thẹn, phải bưng bít, giấu nhẹm đi. Sai lầm được nhìn nhận, chỉ ra cùng sự khắc phục càng khiến mỗi người chín chắn, trưởng thành, làm việc trách nhiệm, hiệu quả hơn. Tất nhiên, từ cả hai phía người phê bình và nhận sự phê bình đều phải trên cơ sở khách quan, công tâm, chân thành, “thấu tình đạt lý”, vì lợi ích của mỗi người và hơn hết là vì tập thể. Đó thực sự phải là việc phê bình để người khác thấy được sai lầm, khuyết điểm của mình và những nguyên nhân mắc phải, từ đó có hướng sửa sai hiệu quả chứ nhất quyết không thể vì động cơ cá nhân, sự đố kỵ, ganh ghét, vùi dập. Có như thế, chúng ta mới thực sự có “vũ khí sắc bén” để “làm cho đảng viên tiến bộ, làm cho Đảng ngày càng mạnh”, như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Và khi “vũ khí sắc bén” ấy được sử dụng đúng lúc, đúng nơi, khoa học, hợp lý thì hiệu quả sẽ là rất tích cực. Ngược lại, những hệ lụy, hậu quả là khôn lường, nhất là khi những sai lầm lặp đi lặp lại, bị bưng bít, giấu kín, những lời phê bình không được tiếp thu, lắng nghe, thậm chí người phê bình còn bị trù dập, bị coi là “phá hoại”, gây mất đoàn kết nội bộ để rồi dẫn đến kết cục “đấu tranh thì tránh đâu” khiến việc phê bình bị xem nhẹ, không ai muốn tiến hành. Để xảy ra tình trạng ấy, những mầm mống bệnh tật sẽ nảy mầm, phát tác, tàn phá đơn vị, địa phương, quốc gia. Khi ấy, thứ “vũ khí sắc bén” cố tình bị bỏ quên và trở nên han gỉ, hỏng hóc. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên nhận thức và biết vận dụng đúng đắn nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Một khi nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong công tác xây dựng Đảng bị bỏ qua, thứ “vũ khí sắc bén” không được sử dụng, sai phạm xảy ra là điều khó tránh khỏi, thiệt hại khôn lường, khó đong đếm.
Suốt gần 95 năm qua, Đảng ta không bao giờ che đậy, giấu giếm khuyết điểm của mình. Vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng đi vào nền nếp, trở thành quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Đảng ta dũng cảm nhìn thẳng vào những hạn chế để tìm cách khắc phục, sửa chữa, nhất là trong công tác cán bộ. Nhờ đó, đã đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hết sức quyết liệt, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, đã trở thành phong trào, thành xu hướng không thể đảo ngược, giúp niềm tin của dân vào Đảng ngày một lớn lao, vững chãi hơn.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã gương mẫu, nghiêm túc thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình; đồng thời tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường kiểm tra, chú trọng gợi ý kiểm tra, chú trọng gợi ý kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân có biểu hiện vi phạm”(9); “Các cấp ủy, tổ chức đảng đã dành thời gian thỏa đáng để kiểm điểm ở cấp mình, trực tiếp dự, chỉ đạo, gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân thuộc quyền quản lý, coi trọng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình”(10).
Đó cũng chính là việc Đảng ta, mỗi cá nhân đảng viên cần chú trọng học Bác một cách thiết thực, hiệu quả, đúng như những gì Bác từng viết trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc rằng: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính... Sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự mãn tự túc, tức là “mèo khen mèo dài đuôi”. Phê bình không phải để công kích, để nói xấu, để chửi rủa”(11). Như vậy, trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không thể xem nhẹ thứ “vũ khí sắc bén” là tự phê bình và phê bình, bởi đó chính là nguyên tắc của Đảng, là việc “vì Đảng, vì dân tộc, vì giai cấp, vì chủ nghĩa cộng sản”(12).
Chú trọng tự phê bình và phê bình một cách thực chất, hiệu quả
Có thể khẳng định rằng, trong suốt gần 95 năm kể từ khi thành lập, Đảng ta luôn chú trọng công tác tự phê bình và phê bình, qua đó đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào những thành tựu mà đất nước đã đạt được.
Dịp kỷ niệm trọng thể 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 - 7-5-2024), bài học liên quan đến tự phê bình và phê bình được nhắc đến khá nhiều, như một thứ “vũ khí” tinh thần nhân lên sức mạnh to lớn, góp phần quyết định giúp Quân đội nhân dân Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp.
Chuẩn bị giai đoạn hai của chiến dịch, Bộ Chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ đề ra ba nhiệm vụ, quan trọng nhất là xây dựng trận địa tiến công và đào hào bao vây. Với ý chí quyết tâm cao, tinh thần lao động khẩn trương, bộ đội ta hoàn thành được hơn 200km đường hào trục, hào giao thông, gấp hơn 2 lần dự tính. Nhưng rồi, quân Pháp dùng pháo binh, không quân bắn phá ác liệt, san lấp, gài mìn ngăn quân ta đào tiếp... Tình thế khó khăn hơn khi đợt tiến công thứ hai của chiến dịch tuy giành nhiều thắng lợi, nhưng ta chưa hoàn toàn đánh chiếm được đồi A1 và C1 - hai điểm cao rất quan trọng đối với cả ta và địch. Khó khăn xuất hiện nhiều hơn khi chiến dịch phải kéo dài, địch đánh phá ác liệt. Đã thế, mùa mưa lại đến sớm khiến việc bảo đảm lương thực, đạn dược gặp nhiều khó khăn. Cán bộ, chiến sĩ đối mặt muôn vàn khổ cực, thử thách. Khó khăn ngoài dự tính ấy nảy sinh những biểu hiện tiêu cực, như ngại gian khổ, ngại thương vong, kém sâu sát đơn vị, chủ quan khinh địch.
Trong cuốn “Chiến sĩ Điện Biên kể chuyện” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2009), Đại tá Hoàng Minh Phương - nguyên Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4, nguyên Trợ lý Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ - kể lại, Đảng ủy Chiến dịch báo cáo lên Ban Thường vụ Trung ương (nay là Bộ Chính trị) và đề nghị cho mở ngay tại mặt trận một đợt đấu tranh tự phê bình và phê bình. Hạ tuần tháng 4-1954, Đảng ủy Chiến dịch triệu tập cán bộ chủ chốt ở các đơn vị và cơ quan từ cấp trung đoàn trở lên về Sở Chỉ huy tại Mường Phăng để họp. Tại hội nghị, sau khi lãnh đạo các đơn vị, cơ quan tự kiểm điểm, sang ngày thứ ba, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Tổng Quân ủy kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch - kết luận, phê bình nghiêm khắc nhiều tập thể, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ.
Sau hội nghị, không khí tự phê bình và phê bình với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, chân thành, thẳng thắn, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau lan tỏa rộng khắp trên mặt trận, ngay tại chiến hào. Những thành tích, chiến công được ghi nhận kịp thời, xứng đáng. Những hạn chế được chỉ ra một cách trách nhiệm, thẳng thắn, bình đẳng. Cuộc đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh tiêu cực trên toàn mặt trận diễn ra đồng bộ, hiệu quả. Một luồng sinh khí mới với sức bật phi thường, sức sống mới, sức chiến đấu mới được hun đúc giúp mỗi cán bộ, chiến sĩ trên mặt trận như được nhân lên sức mạnh vượt qua hiểm nguy, gian khổ, quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá, đây là thành công rất lớn của công tác chính trị trên mặt trận Điện Biên Phủ, một trong những thành công lớn nhất của công tác chính trị trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta.
Không chỉ riêng chiến dịch Điện Biên Phủ, không chỉ trong quân đội, việc tự phê bình và phê bình diễn ra trên mọi lĩnh vực ở tất cả giai đoạn phát triển. Khi phát hiện những điểm không phù hợp trong lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất giai đoạn 1953 - 1956, Trung ương Đảng nghiêm túc, thẳng thắn thừa nhận, chỉ rõ nguyên nhân, yêu cầu biện pháp sửa sai và xử lý nghiêm các trường hợp không thực hiện đúng đường lối lãnh đạo của Đảng. Sự thành thật nhận khuyết điểm và kiên quyết sửa chữa của Đảng và Chính phủ đã góp phần củng cố mối đoàn kết toàn dân, ổn định nông thôn, hăng hái đẩy mạnh sản xuất phục vụ công cuộc kháng chiến.
Ngày 2-1-1965, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 88-CT/TW, Về cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân năm 1965. Chỉ thị chỉ rõ: “Trong cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ trung cấp và cao cấp, bên cạnh tư tưởng hữu khuynh và ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại chưa được khắc phục một cách triệt để, hãy còn nhiều biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân... Tình hình ấy đã làm tổn thương đến tính chất tiền phong và gương mẫu của đảng viên, gây ảnh hưởng xấu trong Đảng, trong nhân dân và thiệt hại lớn cho sự nghiệp cách mạng, cần phải kiên quyết khắc phục”(13). Chỉ thị yêu cầu: “Các đảng viên giữ cương vị lãnh đạo phải gương mẫu trong việc phê bình và tự phê bình, nhất là tự phê bình”(14).
Trong thời kỳ đổi mới, tháng 5-1987, trên Báo Nhân Dân xuất hiện chuyên mục mới mang tên “Nói và làm” và “Những việc cần làm ngay”, chủ đích công khai hạn chế trong lãnh đạo, quản lý, vạch rõ hướng sửa chữa khắc phục, mang đậm tinh thần tự phê bình và phê bình. Từ ngày 25-5-1987 đến ngày 28-9-1990, có 31 bài đăng trên chuyên mục “Những việc cần làm ngay”, đều của tác giả N.V.L (bút danh của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh), nội dung quán triệt sâu sắc tinh thần đổi mới của Đại hội VI của Đảng (năm 1986) là “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”. Nhiều bài viết ngắn gọn, giàu tính chiến đấu, phê phán và yêu cầu xử lý ngay những vấn đề cấp bách, cơ bản lan tỏa không khí đổi mới sâu rộng, thiết thực và hiệu quả. Những tập thể, cá nhân có hiện tượng, hành vi tiêu cực bị “điểm mặt, chỉ tên” và yêu cầu, đề nghị xử lý. Việc tự phê bình và phê bình một cách trực diện, kịp thời, rộng rãi này góp phần quan trọng trong việc triển khai đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, từ đó làm cơ sở, nền tảng cho đất nước bước vào giai đoạn mới với nhiều thành tựu vượt bậc trên tất cả lĩnh vực.
Còn không ít ví dụ sinh động, sâu sắc, nổi bật khác về vấn đề tự phê bình và phê bình trong Đảng một cách kịp thời, thực chất, hiệu quả. Bầu không khí tự phê bình và phê bình trên tinh thần nghiêm túc, thẳng thắn, chân thành, đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, cầu tiến, vì lợi ích quốc gia, dân tộc diễn ra thường xuyên trong Đảng. Kết quả đạt được là rất quan trọng, giúp củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, đây đó vẫn xuất hiện những biểu hiện thờ ơ, xao nhãng, đối phó, xem nhẹ vấn đề tự phê bình và phê bình,... dẫn đến những kết cục đáng tiếc, những cá nhân, tập thể buộc phải xử lý kỷ luật. Đó đều là các đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vi phạm quy định những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương. Đó đều là vi phạm, khuyết điểm gây nguy cơ thất thoát, lãng phí rất lớn tiền, tài sản của Nhà nước và nguồn lực xã hội, gây dư luận xấu, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng và chính quyền...
Nhìn rộng hơn, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã phải thi hành kỷ luật gần 100 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý; một số cán bộ đã bị xử lý hình sự. Con số này được đưa ra tại phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng diễn ra ngày 13-3-2024, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Theo Tổng Bí thư, còn một bộ phận cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, thậm chí có người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp cao, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, vi phạm nguyên tắc và quy chế làm việc, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm...
Những vi phạm nghiêm trọng trong những vụ việc kể trên, trong thực trạng đau xót mà Tổng Bí thư nêu ra đầy trăn trở liệu có xảy ra nếu công tác tự phê bình và phê bình được chú trọng? Câu trả lời chung, thống nhất là không dễ dàng, nhưng có thể khẳng định rằng, sự lơ là, buông lỏng trong công tác tự phê bình và phê bình đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, đáng tiếc. Nếu như có sự thẳng thắn, khách quan, công bằng, công tâm, vì lợi ích chung thì khuyết điểm, sai phạm sẽ được chỉ ra một cách kịp thời, tìm cách tháo gỡ hiệu quả. Nếu việc tự phê bình và phê bình được thực hiện thường xuyên thì cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ vị trí lãnh đạo, những người đứng đầu sẽ không dễ dàng vi phạm những điều đảng viên không được làm, không tha hóa, biến chất, rơi vào những “chiếc bẫy” lợi ích phi pháp, những “viên đạn bọc đường” trong giải quyết công việc, trong sinh hoạt thường ngày để rồi trượt dài vào suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đánh mất bản thân mình, gây phương hại đến tập thể, ảnh hưởng tới danh dự, uy tín của Đảng và Nhà nước.
Chúng ta càng thấm thía, trăn trở hơn khi nhớ lại rằng, trong bản Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(15).
“Vũ khí sắc bén” cần được sử dụng thường xuyên, hiệu quả
Trong thực tế, đã làm việc là có sai lầm, dễ mắc khuyết điểm, dù với bất kỳ ai, bất kể công việc, ở bất cứ lĩnh vực nào. Nhưng vì nhiều lý do, không phải sai lầm, khuyết điểm nào cũng có thể được chỉ ra, để rồi xảy ra hậu quả đáng tiếc. Vậy nên, việc tự phê bình và phê bình phải luôn được coi trọng, xem đó là thứ “vũ khí sắc bén” cần được sử dụng thường xuyên, hiệu quả.
Như trên đã chỉ rõ, một khi vấn đề tự phê bình và phê bình được thực hiện kịp thời, thực chất, công tâm, khách quan sẽ giúp mang lại những kết quả đáng khích lệ. Ngược lại, nếu chúng ta xem nhẹ, lơ là, bỏ qua thứ “vũ khí” này sẽ xảy ra những hậu quả đáng tiếc. Vì vậy, không cách gì khác, trong tiến trình lịch sử, trong mỗi bước phát triển luôn cần sử dụng thứ “vũ khí sắc bén” ấy một cách thường xuyên, liên tục, hiệu quả.
Tất nhiên, tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên, liên tục không nên chỉ là khẩu hiệu hay phong trào mà phải là việc làm thực chất của mỗi đảng viên, tổ chức cơ sở đảng. Ví như mỗi đảng viên, nhất là những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, cần thường xuyên nhìn lại mình sau mỗi ngày làm việc, mỗi việc làm cụ thể, nhất là những việc tác động đến tập thể, đến nhiều người, đến xã hội. Sự nhìn lại mình thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày” ấy là sự tự rút ra những bài học kinh nghiệm, xem xét về những gì chưa làm được, những gì còn hạn chế để không mắc phải sai lầm tương tự, đồng thời tìm giải pháp khắc phục, cải thiện trong những công việc sau này, cả trong mỗi “lời ăn tiếng nói” để hành xử đúng đắn, phù hợp và tốt đẹp hơn.
Đối với mỗi tập thể, việc tự phê bình và phê bình cũng không nên cứng nhắc, hình thức, qua loa mà phải thực chất, linh hoạt, kịp thời, đúng người, đúng việc, rõ ràng, dưới nhiều hình thức khác nhau. Một khi mỗi cá nhân, từng tập thể tạo ra được bầu không khí tự phê bình và phê bình một cách dân chủ, thực sự giúp nhau tiến bộ, giúp tổ chức, tập thể thường xuyên tự soi, tự sửa và có sự kiểm tra, giám sát kịp thời, hợp lý sẽ giúp nhận ra khuyết điểm, sai lầm một cách nhanh chóng, từ đó có giải pháp khắc phục hiệu quả. Khi đã có được bầu không khí tự phê bình và phê bình như vậy, với sự đoàn kết cùng chí hướng tiến bộ, phát triển, sẽ không có chỗ cho tư thù, trù dập, lợi ích cá nhân nảy sinh.
Sự tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên, liên tục trên cơ sở như vậy cũng giúp mỗi người cảm thấy đó là “được phê bình”, chứ không phải “bị phê bình”, tránh nảy sinh tâm lý trái chiều, đối nghịch là chủ quan, kiêu ngạo hoặc tự ti, xấu hổ. Bởi đó chính là sự giúp nhau, cùng nhau tiến bộ. Và khi mỗi thành viên đều ngày càng hoàn thiện mình, sai lầm, khuyết điểm ngày càng hạn chế đi thì tổ chức, tập thể chắc chắn sẽ mạnh lên, sẵn sàng đảm đương và hoàn thành xuất sắc mọi công việc được giao. Cũng phải nói thêm rằng, việc tiến hành bất kỳ công việc gì một cách thường xuyên, liên tục cũng sẽ giúp tạo ra sự liền mạch, có tính kế thừa, sự thông suốt, tránh tình trạng ngắt quãng dẫn tới xao nhãng, bỏ bê, xem nhẹ để rồi không chú tâm, chú trọng vào công việc, dù có quan trọng đến đâu chăng nữa. Người xưa đã đúc kết, có “văn ôn, võ luyện” thường xuyên thì mới thuần thục, thành tài, nếu không sẽ khó lòng đạt kết quả như mong muốn, thậm chí còn xảy ra nguy cơ phương hại đến thành quả đã đạt được. Điều đặc biệt nguy hiểm là còn có tình trạng việc tự phê bình và phê bình không được cán bộ lãnh đạo chú tâm, thậm chí còn có biểu hiện coi nhẹ, không thích, trù dập cán bộ cấp dưới có ý kiến góp ý, phê bình xác đáng, công khai, công tâm, đúng người, đúng việc.
Như trên đã chứng minh rằng, việc tự phê bình và phê bình một cách qua loa, chiếu lệ, chung chung đã gây ra những hậu quả khó lường, những thiệt hại to lớn về nhiều mặt, từ vật chất đến tinh thần, từ nhân sự đến niềm tin. Điều này để thấy rõ hơn rằng, việc tự phê bình và phê bình thường xuyên, liên tục phải được tiến hành một cách hết sức nghiêm túc, vì mục đích chung, tránh “dĩ hòa vi quý”, sợ mất lòng, sợ bị trù dập... Việc này, đáng tiếc lại không phải là hiếm gặp, ở không ít đơn vị, địa phương. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Trong tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số cán bộ, đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao phụ trách”(16).
Như vậy, cần thiết phải nhắc lại ví dụ đã nêu về việc nhiều cán bộ sai phạm dẫn đến bị kỷ luật, vướng vòng lao lý có một phần là bởi công tác tự phê bình và phê bình đã không được coi trọng đúng mức trong thời gian dài, dẫn đến việc xử lý cả cá nhân lẫn tập thể. Nhắc lại như thế để thấy rõ thêm, cần coi trọng việc sử dụng “vũ khí sắc bén” tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên, liên tục. Cũng cần nhắc lại rằng, cả cuộc đời vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề tự phê bình và phê bình. Trong Di chúc, Người coi đó là một trong ba vấn đề trọng đại, cốt lõi, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đảng ta luôn thấu triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong từng thời kỳ, mỗi giai đoạn lãnh đạo của mình đều kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong thực tiễn sinh động, phù hợp với bối cảnh tình hình trong nước và trên thế giới. Biểu hiện đậm nét, sinh động nhất là 3 nhiệm kỳ gần đây (Đại hội XI, XII và XIII), Đảng ta đều chọn Hội nghị Trung ương 4 - hội nghị đầu mỗi khóa - để bàn về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chú trọng hoạt động tự phê bình và phê bình. Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và các quy định về nêu gương đều có đề cập vấn đề tự phê bình và phê bình.
Từ sự khai phá, nhìn thẳng vào những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (năm 2011), nhất là công tác tự phê bình, phê bình chưa được làm quyết liệt, đến nay công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, quyết liệt, giải quyết đúng những hạn chế, nhất là trong công tác phòng chống tham nhũng “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”... Cụ thể, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Trung ương kiên quyết thực hiện với hàng loạt đại án đã đưa ra xét xử. Các vụ án được xét xử đúng người, đúng tội.
Công cuộc chống “giặc nội xâm” đã tạo được niềm tin rất lớn trong nhân dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động cũng điên cuồng chống phá, xuyên tạc, bóp méo, bôi nhọ rằng đó là những cuộc “thanh trừng phe nhóm”, “cuộc chiến phe nhóm”, “cuộc chiến quyền lực”... Những thông tin xấu độc lan tràn trên mạng khiến không ít người dân, trong đó có cả cán bộ, đảng viên tiếp nhận một cách vô tình bị phân tâm, dao động ít nhiều. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề tự phê bình và phê bình càng cần được đề cao, chú trọng hơn, đối với từng đảng viên, từng tổ chức cơ sở đảng và trong toàn Đảng, để giúp mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chính là việc tích cực góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giúp Đảng ngày càng loại bớt những mối hiểm nguy, những “mầm bệnh”.
Trên cơ sở nhận thức khách quan, đúng đắn đó, mỗi cán bộ, đảng viên tuyên truyền, lan tỏa rộng rãi hơn trong đơn vị, xã hội, để mỗi người dân đều kịp thời nhận được thông tin đúng đắn, thêm một lần thấy rõ rằng việc tự phê bình và phê bình chính là “vũ khí sắc bén” để kịp thời nhận diện, chặn đứng những nguy cơ chúng ta có thể phải đối mặt. Từ đó góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, sáng suốt, lãnh đạo đưa đất nước ta đạt được nhiều kết quả, thành tựu hơn nữa, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”./.
Tạp chí Cộng sản
Không có mô tả ảnh.