Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

RFA đang “lo bò trắng răng”

 

RFA đang “lo bò trắng răng”

   “Các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ đối mặt với các quan ngại về nhân quyền khi đầu tư vào Việt Nam” là tiêu đề bài viết đăng trên trang facebook Đài RFA ngày 05/10. Trong bài viết có thông tin: khi làm việc với các nhà lãnh đạo Việt Nam, đại diện các tập đoàn lớn về công nghệ của Mỹ lại không hề nhắc tới liệu hãng có thảo luận vấn đề tự do ngôn luận với lãnh đạo Chính phủ Việt Nam vốn thường xuyên bỏ tù công dân giám bày tỏ ý kiến khác biệt dù rất nhỏ của mình trên mạng xã hội hay không.

Thực chất, thông tin này nhằm kích động các tập đoàn công nghệ của Mỹ dùng vấn đề nhân quyền làm “điều kiện” khi đàm phán hợp tác với Việt Nam, nếu không sẽ đối mặt với các quan ngại về nhân quyền khi đầu tư. Điều này cho thấy Đài RFA đang “lo bò trắng răng”. Bởi vì:

Tất cả những tập đoàn kinh tế lớn, các doanh nghiệp trong đó có các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ đều thực hiện nguyên tắc bất di bất dịch trong khi đàm phán hợp tác đầu tư, làm ăn ở bất kỳ quốc gia nào là họ đều phải tìm hiểu kỹ về tình hình chính trị; chủ trương, đường lối, chính sách thu hút và những ưu đãi khi đầu tư; nguồn nhân công, cơ sở hạ tầng,... làm cơ sở tính lợi nhuận thu được. Đây là yếu tố quan trọng nhất, quyết định việc có đầu tư hay không của các tập đoàn, doanh nghiệp. Đối với Việt Nam, hiện đang là một trong những quốc gia luôn đáp ứng tốt nhất các điều kiện, yêu cầu đối với các tập đoàn kinh tế lớn và cộng đồng doanh nghiệp trên toàn thế giới.

Thực tế đã chỉ ra: Việt Nam là đất nước có sự ổn định về chính trị. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách ưu đãi để phát triển nền kinh tế, khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư. Trong các chuyến công tác, làm việc ở nước ngoài, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ đều có các cuộc gặp, làm việc trực tiếp với lãnh đạo các tập đoàn lớn, cộng đồng doanh nghiệp tại các nước nhằm khẳng định quan điểm, chủ trương, chính sách thu hút đầu tư; trao đổi, làm rõ những thời cơ, thuận lợi khi đầu tư vào Việt Nam,... tạo sự yên tâm, tin tưởng của các tập đoàn kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp quốc tế.

Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 31/8/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt hơn 20,52 tỉ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, có 2.247 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (tăng 8,5% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt gần 12 tỉ USD (tăng 27% so với cùng kỳ); có 926 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 4,9% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt hơn 5,7 tỉ USD (tăng 14,8% so với cùng kỳ). Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân.

Bên cạnh đó, Việt Nam luôn quan tâm, nỗ lực bảo đảm và thực thi đầy đủ các quyền cơ bản của con người, như: quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, v.v. Bằng chứng là, ngày 27/9/2024 vừa qua, Khóa họp thường kỳ lần thứ 57, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã thông qua kết quả rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt NamTrong đó, đánh giá cao sự tham gia nghiêm túc của Việt Nam trong toàn bộ tiến trình UPR, nhất là việc chấp thuận các khuyến nghị với tỉ lệ cao và xây dựng kế hoạch triển khai bài bản. Đồng thời, hoan nghênh những nỗ lực và thành tựu ấn tượng của Việt Nam rong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đặc biệt trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai. Các đại biểu đã ghi nhận các tiến bộ mọi mặt ở Việt Nam về hoàn thiện thể chế, pháp luật về quyền con người, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới sáng tạo, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và quyền các nhóm dễ bị tổn thương. Nhiều nước đã khuyến khích Việt Nam phát huy kinh nghiệm và thực tiễn tốt trong triển khai các khuyến nghị UPR. Một số tổ chức phi chính phủ nhấn mạnh đã được tạo điều kiện tham gia đóng góp vào tiến trình UPR ở Việt Nam, chia sẻ rằng thông qua tham gia UPR đã có nhiều đề xuất của mình được Chính phủ tiếp thu và triển khai trên thực tiễn, nhất là trong bảo đảm bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ, thúc đẩy phát triển bền vững.

Vì thế, không có gì ngạc nhiên, khi Chủ tịch phụ trách quan hệ đối ngoại toàn cầu của Meta (Công ty mẹ của Facebook) là Nick Clegg đã khẳng định: “Việt Nam tiếp tục là một quốc gia quan trọng đối với Meta” trong cuộc làm việc với Thủ tướng Chính phủ Pham Minh Chính và tuyên bố sẽ sản xuất thiết bị kính thực tế ảo tại Việt Nam. Và tới đây, sẽ còn nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn khác trên thế giới tiếp tục tìm hiểu, đầu tư phát triển tại Việt Nam trong tương lai.

Việc Đài RFA chỉ dựa vào một số thông tin phiến diện, không chính xác rồi suy diễn: “Các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ đối mặt với các quan ngại về nhân quyền khi đầu tư vào Việt Nam” là hoàn toàn vô lý, chả khác nào “lo bò trắng răng”./.


Tại sao các Zận “dân chủ” lại đòi bỏ ba điều luật (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015

 

Tại sao các Zận “dân chủ” lại đòi bỏ ba điều luật (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015

       - Lợi dụng việc các tổ chức, cơ quan chức năng tổ chức các hội nghị, hội thảo để lấy ý kiến đóng góp rộng rãi trong nhân dân để xây dựng các dự Luật (trong đó có nội dung đề nghị bổ sung một số luật) trình Quốc hội xem xét thông qua, các Zận “dân chủ”, lực lượng thù địch, phản động ra sức xuyên tạc ý nghĩa và một số nội dung của định hướng xây dựng luật. Trên các trang mạng xã hội, chúng sử dụng thủ đoạn “trích dẫn”, “cắt ghép” ý kiến của một số luật sư thoái hóa, biến chất, như: Đặng Đình Mạnh, Lê Quốc Quân,… để phủ nhận sự cần thiết, giá trị và một số nội dung bổ sung của luật. Đáng lưu ý là chúng “yêu cầu bãi bỏ ba điều luật (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

         Trước hết cần khẳng định rõ đây là đòi hỏi hết sức phi lý. Vậy tại sao chúng lại đưa ra yêu cầu này? Tre Việt xin trao đổi mấy ý kiến như sau:

Thứ nhất, các điều luật mà chúng đòi xóa bỏ là những quy định về nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, như: Điều 109 “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, Điều 117 “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.


Thứ hai, từ thực tiễn đều minh chứng: bản thân các Zận “dân chủ” đã luôn lợi dụng vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”,... để vi phạm các nội dung được quy định rõ trong các điều trên, nhất là Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Những vi phạm của các nhà Zân “chủ dân” này đều được các cơ quan pháp luật Việt Nam điều tra, xét xử công khai, đúng người, đúng tội. Song, được sự hà hơi, tiếp sức, thậm chí là “vinh danh” của các thế lực phản động, thù địch bên ngoài, chúng ra sức “kêu oan”, xuyên tạc, vu cáo chính quyền, rằng: vi phạm quyền “tự do ngôn luận”, “dân chủ”, quyền “bất khả xâm phạm của con người”,... hòng hướng sự chú ý của dư luận trong nước, cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức theo dõi nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí như: RFI, RFA, BBC,… tạo cớ can thiệp, chống phá Việt Nam.

Thứ ba, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”. Thực tiễn, hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều có chế tài, điều khoản luật xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng quyền tự do để vi phạm pháp luật. Nói cách khác, quyền tự do ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải gắn với chế độ chính trị, điều kiện xã hội, nền tảng đạo đức, pháp lý trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm, gây hấn, v.v. Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận đưa ra các giới hạn, chế tài nghiêm khắc trừng trị hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí, năm 1881); chống lại việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Luật Hình sự). Việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do báo chí, v.v.

 Những điều trên cho ta thấy rõ bản chất của các nhà Zận “dân chủ” và các thế lực thù địch, phản động là: chúng muốn xóa bỏ các điều luật trên để thực hiện âm mưu, ý đồ hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tạo môi trường thuận lợi để chống phá Đảng, Nhà nước. Mục đích của chúng là muốn đưa mình thoát khỏi “vùng cấm” của luật pháp, muốn đứng ngoài vòng pháp luật để dễ dàng tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, như: tuyên truyền chống Nhà nước, thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam,… mà không bị chế tài pháp luật xử lý. Đồng thời, hướng lái dư luận xã hội theo chiều hướng tiêu cực, tạo ra suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam rối ren, tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo áp lực dư luận để đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật này.

Như vậy, có thể thấy, yêu cầu xóa bỏ các điều (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ là những đòi hỏi phi lý, là chiêu trò, thủ đoạn của các nhà Zận “dân chủ” và lực lượng thù địch, phản động hòng bao che, cổ súy cho những hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, làm mất ổn định chính trị - xã hội, cản trở sự nghiệp phát triển của Việt Nam. Chúng ta cần cảnh giác và đấu tranh bác bỏ những yêu cầu đòi hỏi phi lý này./.

Phản bác sự xuyên tạc đường lối văn hóa của Đảng ta

 

Phản bác sự xuyên tạc đường lối văn hóa của Đảng ta

      - Nhằm công kích, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, đường lối xây dựng, phát triển văn hóa, văn nghệ của Đảng ta, các thế lực thù địch, phản động ra sức lợi dụng internet, các phương tiện truyền thông để chống phá; cho rằng Đảng ta không quan tâm đến phát triển văn hóa, phát triển con người, có chăng cũng chỉ là hình thức, mị dân. Mới đây, trên trang Viettan.org, Nguyễn Huy Vũ có bài viết: “Văn hóa”, đã vu cáo, xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần phá hủy văn hóa của quốc gia. Bài viết của Nguyễn Huy Vũ vẫn sử dụng chiêu bài cũ rích với cái giọng điệu thâm thù, vu khống, bịa đặt, bôi nhọ, bóp méo quan điểm, đường lối phát triển văn hóa hiện nay, đồng thời nói xấu Đảng Cộng Sản Việt Nam.

          Cần khẳng định rõ, đây là luận điệu hết sức sai trái, sặc mùi phản động của Nguyễn Huy Vũ, bởi: y núp dưới chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do sáng tác”, “quyền thông tin” để kích động các quyền “tự do”, “dân chủ” trên lĩnh vực văn hóa; xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, nói xấu, vu cáo chế độ, v.v. Mục tiêu của Nguyễn Huy Vũ và những kẻ cùng hội, cùng thuyền với y vẫn là nhằm phủ nhận tính giai cấp, tính Đảng của văn hóa; tiêm nhiễm làm xói mòn, lệch chuẩn văn hóa truyền thống, các giá trị đạo đức, nhân ái, nhân văn tốt đẹp của dân tộc; kích thích tâm lý, lối sống thực dụng, thực hiện mưu đồ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hình thành ý thức chống đối về chính trị, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta. 

          Một sự thật hiển nhiên ai cũng biết: văn hóa là hồn cốt, sinh khí, sức mạnh của dân tộc; văn hóa còn thì dân tộc còn. Điều này được minh chứng trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Và, tiếp tục được thực tiễn minh chứng, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi đây vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận quan trọng nhằm định hướng kịp thời con đường phát triển của nền văn hóa dân tộc trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nổi bật là: Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI), về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”; Nghị quyết số 03-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X), về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”; Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Và, tại Hội nghị thẩm định Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (ngày 14/9/2022), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo: việc xây dựng quy hoạch cần quán triệt và cụ thể hóa phát triển nhanh nhưng bền vững, phát triển hài hòa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, đặt văn hóa ngang tầm kinh tế, chính trị, xã hội, xác định văn hóa, lịch sử truyền thống là một nguồn lực; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trên thực tiễn, nhiều tấm gương sáng trong phong trào Thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã lan tỏa vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung.

Đây là minh chứng không thể chối cãi, bác bỏ luận điệu cho rằng: Đảng ta không chăm lo phát triển văn hóa, phá hủy văn hóa quốc gia, không quan tâm đến đời sống tinh thần của nhân dân. Vì vậy, mọi sự xuyên tạc, bóp méo của Nguyễn Huy Vũ về văn hóa ở nước ta là hoàn toàn sai trái; chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, vạch trần âm mưu đen tối đó./.

Cảnh giác trước sự suy diễn, xuyên tạc về “điểm nghẽn” thể chế

 

Cảnh giác trước sự suy diễn, xuyên tạc về “điểm nghẽn” thể chế

 - Phát biểu tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV vừa qua, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu ra 3 “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay ảnh hưởng đến quá trình phát triển đất nước là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết suy diễn, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông quốc tế, mạng xã hội. Đáng chú ý, ngày 23/10, kênh tiếng Việt, Đài Á Châu Tự do (RFA) đăng bài: “Lực lượng dân chủ trong và ngoài nước kêu gọi Việt Nam cải cách thể chế”; trong đó, yêu cầu cần cải cách thể chế chính trị theo chế độ đa nguyên, đa đảng để bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các lực lượng chính trị khác nhau. Đây là sự suy diễn, xuyên tạc vô cùng thâm độc của các phần tử cơ hội chính trị, đòi hỏi chúng ta cần nêu cao cảnh giác, tỉnh táo để nhận diện và đấu tranh bác bỏ.

Cần khẳng định ngay rằng: ở Việt Nam chỉ có một lực lượng chính trị duy nhất nắm quyền lãnh đạo đất nước đó là Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội cả nước đang hướng tới, đi lên là chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn khách quan của lịch sử, đồng thời là sự lựa chọn của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh và cả dân tộc Việt Nam. Đến nay, sau gần 90 năm ra đời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành được chính quyền, thống nhất non sông, nắm quyền lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang khẳng định vai trò, vị thế của mình và con đường đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn cả về lý luận và thực tiễn. 

Tuy nhiên, đứng trước những thời cơ, thách thức để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển nhanh, bền vững, đạt được những mục tiêu mà Đảng ta đã xác định thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá đúng những vướng mắc, khó khăn, bất cập, “điểm nghẽn” đang cản trở tiến trình hội nhập, phát triển đất nước. Từ đó, có các giải pháp khắc phục, tháo gỡ, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong đó, tháo gỡ về thể chế, “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn” là yếu tố rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang sẵn sàng tâm thế bước vào một giai đoạn phát triển mới. Đặc biệt, với chức năng quan trọng của Quốc hội là lập hiến và lập pháp, cử tri và nhân dân mong muốn Quốc hội và các đại biểu Quốc hội tiếp tục thống nhất, gương mẫu đi đầu, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Bên cạnh đó, là sự vào cuộc đồng bộ của các ban, bộ, ngành, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, v.v. Làm được điều đó, nhất định đất nước ta sẽ ngày càng phát triển, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Song, với bản chất thâm độc, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không cam tâm, đành lòng và không bao giờ từ bỏ âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội ở nước ta. Ngược lại, chúng luôn rình rập, “bới lông tìm vết”, “lập lờ đánh lận con đen”, tìm mọi cách để chống phá. Việc chúng đưa ra luận điệu: yêu cầu Việt Nam cần: “cải cách thể chế chính trị theo chế độ đa nguyên, đa đảng để bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các lực lượng chính trị khác nhau,... là nguyện vọng của người dân mà còn thể hiện trách nhiệm của Đảng Cộng sản và Nhà nước trong việc giữ vững các giá trị nhân quyền đã cam kết” đã bộc lộ rõ bộ mặt thật, dã tâm xấu độc cần lên án, đấu tranh, bác bỏ./.

NHÂN VĂN - GIÁ TRỊ ĐỊNH DANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ

  NHÂN VĂN - GIÁ TRỊ ĐỊNH DANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ 

Cái đẹp mang tên Bộ đội Cụ Hồ có từ quá khứ, hiển hiện trong cuộc sống hôm nay với những giá trị tinh thần to lớn, bền vững và sức lan tỏa rộng rãi. Đó là những vầng sáng có thực trong cuộc sống hôm nay. Mỗi việc tốt được làm nên từ phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn của Bộ đội Cụ Hồ rất xứng đáng được ghi nhận. Tôi nghĩ rằng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ sẽ có sức truyền cảm mạnh mẽ không chỉ trong Quân đội ta mà còn lan rộng ra trong cả nước và thế giới.

1. Những gì tốt đẹp thuộc về truyền thống Bộ đội Cụ Hồ không phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải là kết quả có được chỉ qua ngày một ngày hai, mà nó chính là hành trình được hình thành, kết tụ, bồi đắp lâu dài. Như phù sa có trong một dòng chảy vạm vỡ đi suốt thời gian, không gian kỳ vĩ, trải muôn vàn thăng trầm quanh co để tạo dựng thành văn hóa của một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng quang vinh.

Đấy không phải là sự tô hồng mà chính là lịch sử, là chặng đường 80 năm Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, hiếu nghĩa với dân, vượt qua gian khó, hy sinh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao phó. Đó cũng là kết quả tất yếu để hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trở thành biểu tượng tốt đẹp của lòng yêu nước, thương dân, của đạo đức, phẩm chất cao cả và những cống hiến to lớn cho dân tộc và nhân loại. Nói đến văn hóa dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam không thể không khẳng định tính nhân văn của Quân đội ta-một đội quân cách mạng đã làm nên tính chính danh của Bộ đội Cụ Hồ.

Trước hết cần nói ngay rằng, chủ nghĩa nhân văn là một trong những giá trị cao quý của loài người. Đó chính là cái chung, cái phổ quát mang tầm nhân loại; là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để con người hướng tới sự tốt đẹp, văn minh. Chủ nghĩa nhân văn được coi là tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp.

Chủ nghĩa nhân văn bao hàm cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và nhân loại. Chủ nghĩa nhân văn đương nhiên phải lấy con người làm trung tâm, vị thế con người luôn được đặt vào số 1 trên hành tinh và được nhìn nhận, soi chiếu trước hết qua những đóng góp, cống hiến của con người cho đất nước, quê hương mình.

Chủ nghĩa nhân văn khi trở thành cách nghĩ, cách sống của một dân tộc mặc nhiên sẽ là cốt lõi của nền văn hóa cộng đồng, quốc gia, với bản sắc riêng mang dấu ấn lịch sử rành mạch, dẫu rằng không thể bỏ qua sự giao thoa, tiếp biến với cái chung toàn cầu. Lịch sử đã chứng minh rằng, dân tộc Việt Nam luôn đề cao nhân nghĩa mà hạt nhân của nó không gì khác là sự yêu thương.

Yêu thương, nhân nghĩa, bao dung đã trở thành căn tính của người Việt. Từ thế kỷ 15, Nguyễn Trãi từng viết trong “Bình Ngô đại cáo”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Sau này, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh suy cho cùng cũng là lòng yêu nước, thương dân, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta/ Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa/ Chỉ biết quên mình cho hết thảy/ Như dòng sông chảy nặng phù sa”.

2. Quân đội ta vừa được kế thừa truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam bồi đắp, tỏa sáng từ mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước bi tráng vừa được giáo dục, phát huy từ sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Truyền thống dân tộc được hòa quyện vào tư tưởng tiến bộ của thời đại tạo ra bản chất chế độ định hướng chủ nghĩa xã hội cũng là bản chất của Quân đội ta vốn từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ.

Lý tưởng của Đảng cũng là khát vọng của dân tộc; khát vọng đất nước độc lập, tự do, non sông hòa bình, thống nhất và đồng bào được ấm no, hạnh phúc cũng là lý tưởng của Quân đội ta. Lý tưởng cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ lựa chọn hướng tới dân tộc và nhân loại, không vì lợi ích của riêng ai hay của một nhóm người nào cả.

Chủ nghĩa nhân văn cao cả tập trung ở đó, là sự trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cũng như dân tộc Việt Nam, Quân đội ta tha thiết yêu hòa bình. Chiến tranh luôn là lựa chọn cuối cùng của chúng ta và các cuộc kháng chiến giải phóng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, của Quân đội ta thấm đẫm lòng yêu nước nồng nàn. Đấy là các cuộc kháng chiến chính nghĩa, có sức mạnh vô địch của lòng dân đoàn kết đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Biểu hiện nhân văn có trong hầu hết hoạt động của Quân đội, từ tinh thần chiến đấu dũng cảm trên mặt trận, chiến trường ác liệt đến tình quân dân cá nước, tình đồng chí, đồng đội gắn bó, cách đối xử với tù, hàng binh... Chúng ta chưa bao giờ lấy thù hận để kích hoạt chiến tranh xung đột, càng không lấy oán thù trả oán thù khi đối phương đã bị thất bại.

Kết thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” với hàng nghìn tù binh Pháp được đối xử tử tế. Ngày 10/10/1954, Thủ đô Hà Nội tưng bừng đón đoàn quân chiến thắng trở về trong cuộc tiếp quản hòa bình. Sau hơn 20 năm "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", Việt Nam lại viết nên khúc khải hoàn ca mới với dấu mốc lịch sử rực rỡ ngày 30/4/1975. Kẻ thù của ta từng rêu rao, tưởng tượng ra một cuộc "tắm máu" tàn khốc bởi “bàn tay sắt của cộng sản” sau khi Sài Gòn bị thất thủ nhưng không có chuyện đó. Thực tế hoàn toàn không có một cuộc trả thù nào dành cho kẻ bại trận.

Những người lính giải phóng khi đã đi đến đích chiến thắng cuối cùng rưng rưng ngắm bầu trời hòa bình, rồi nghẹn ngào thốt lên: “Tự do xanh quá, mênh mông quá” (Hữu Thỉnh). Trước đó, biết bao người lính cách mạng cùng những người thân nhất của họ đã phải gánh gồng số phận nghiệt ngã của dân tộc trên vai: “Một đời người mà chiến chinh nhiều quá/ Em níu giường, níu chiếu đợi anh" (Hữu Thỉnh). Và thật xót xa khi nói rằng đã có hàng triệu người thương vong trong cuộc chiến kéo dài thăm thẳm đó. Hậu quả dai dẳng của nó vẫn chưa hao vơi nhiều trong cuộc sống hôm nay. Những người thắng trận có đủ lý do để “trả thù” đấy chứ. Nhưng những người lính Cụ Hồ có đủ nhân văn để khép lại quá khứ, quên đi thù hận, cùng sự bao dung dâng tràn trong lòng người chiến thắng.

Mấy ai ngờ rằng, chỉ một ngày sau khi lá cờ giải phóng được kéo lên trên nóc Dinh Độc Lập, giữa lòng thành phố Sài Gòn vừa im tiếng súng có một đêm giao hưởng cực kỳ hoành tráng vang ngân. “Cát bụi đường xa, khẩu súng ngọn cờ/ Ngửa bàn tay gặp bàn tay nhạc trưởng/ Mở tấm lòng gặp tấm lòng giao hưởng/ Bổng trầm cung bậc tìm nhau” (Anh Ngọc). Suối nguồn nhân nghĩa dào dạt tuôn trào, mỗi người lính trường chinh góp phần làm nên cung bậc hòa bình muôn vàn xúc động.

Chẳng cần nói gì nhiều, chỉ cần nhìn vào công việc của những người lính Cụ Hồ đã làm cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho cả những kẻ từng nhằm bắn vào ta đã thấy ánh sáng nhân văn lan tỏa. Vì thế, cái đẹp nhân văn của Bộ đội Cụ Hồ tự lan tỏa như những giá trị văn hóa tuyệt vời và chắc chắn sẽ rất bền lâu nếu không muốn nói là mãi mãi.

3. Dù thời chiến hay thời bình, thời nào thì người lính vẫn có mặt nơi gian khổ nhất, vẫn phải chịu đựng nhiều thiệt thòi, hy sinh nhất. Trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào, dù nghiệt ngã đến mấy, người lính Cụ Hồ vẫn rất gần gũi với nhân dân, là điểm tựa tin cậy của đồng bào khi thiên tai, dịch bệnh, hoạn nạn xảy ra. Gần đây nhất, trong và sau cơn bão lịch sử Yagi mùa thu năm 2024, hình ảnh người lính Cụ Hồ đã làm xúc động bao trái tim.

Tôi thực sự nghẹn lòng khi được xem hình ảnh cán bộ, chiến sĩ ta dầm mình trong bùn đất lầy lội ở Làng Nủ (Phúc Khánh, Bảo Yên, Lào Cai) để tìm từng thân xác người dân bị nạn sau cơn lũ quét kinh hoàng. Họ lặng lẽ làm việc, trong mưa chan nắng giội, trong những hiểm nguy có thể ùa ập đến bất cứ lúc nào, không ồn ào, cũng chẳng hề “phông bạt” khoe mẽ.

Nơi nào có dấu chân người lính, nơi ấy có ấm áp tình thương và những niềm tin cứ thế được vun đắp thêm. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ vẫn luôn được lưu giữ rất đỗi tự nhiên, sâu nặng trong lòng nhân dân. Từ thuở "đầu súng trăng treo" cho đến hôm nay, người lính Cụ Hồ vẫn khiến đi dân nhớ, ở dân thương. Đâu dễ để được dân nhớ, dân thương một cách đầy xúc động như thế.

Cái đẹp mang tên Bộ đội Cụ Hồ có từ quá khứ, hiển hiện trong cuộc sống hiện tại với những giá trị tinh thần to lớn, bền vững và sức lan tỏa rộng rãi. Đó là những vầng sáng có thực trong cuộc sống hôm nay. Mỗi việc tốt được làm nên từ phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn của Bộ đội Cụ Hồ rất xứng đáng được ghi nhận. Tôi nghĩ rằng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ sẽ có sức truyền cảm mạnh mẽ không chỉ trong Quân đội ta mà còn lan rộng ra trong cả nước và thế giới.

Bằng chứng sinh động là hình ảnh những quân nhân đến từ Việt Nam trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc đã tạo nhiều ấn tượng sâu sắc với bè bạn quốc tế. Coi trọng nhân văn từ nhận thức đến hành động là biểu hiện rất rõ nét của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là phần tốt đẹp định danh giá trị truyền thống vẻ vang của Bộ đội Cụ Hồ. Từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, cùng với hành trình xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, chủ nghĩa nhân văn sẽ mãi mãi được bồi đắp và lan tỏa.

Ý chí và tâm hồn, sức mạnh và vẻ đẹp của người lính Cụ Hồ sẽ luôn hướng tới sự cao cả bình dị. Ngay chính trong cuộc sống, từ cuộc sống của mỗi người chiến sĩ luôn gắn bó với Tổ quốc và nhân dân. Không có gì là dễ dàng, mỗi người lính hôm nay cũng phải tự vượt lên chính mình, tự gạn đục khơi trong, tỉnh táo nhận ra đúng-sai để nhận thức và hành động đúng đắn. "Mãi mãi lòng chúng ta, ca bài ca người lính". Khúc quân hành Bộ đội Cụ Hồ mãi ngân vang trên mỗi nẻo đường Tổ quốc, lòng yêu nước, thương dân vẫn vằng vặc sáng chưa hề tắt. Bởi trong mỗi trái tim Bộ đội Cụ Hồ luôn mang một vẻ đẹp nhân văn bình dị mà cao cả.

TĂNG CƯỜNG Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CỦA THANH NIÊN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

TĂNG CƯỜNG Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CỦA THANH NIÊN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

Không gian mạng góp phần tích cực vào phát triển nhận thức, tư duy và kỹ năng sống của con người; vào sự phát triển của văn hóa cộng đồng đồng thời góp phần thúc đẩy, mở rộng hội nhập quốc tế. Để làm chủ không gian mạng đòi hỏi thanh niên không chỉ cần có kiến thức mà cần nêu cao ý thức chấp hành pháp luật góp phần vào việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội mà còn tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp Nhân dân thực hiện nghiêm túc Hiến pháp, pháp luật Nhà nước trên không gian mạng và ngoài xã hội. Bên cạnh những yếu tố tích cực, không gian mạng cũng tồn tại những hạn chế như: Môi trường thông tin trên không gian mạng thật giả dễ lẫn lộn, khó kiểm chứng và kiểm soát. Không gian mạng tác động tiêu cực đối với sự phát triển văn hóa cộng đồng. Không gian mạng làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật, suy giảm quyền lực nhà nước và sức mạnh quốc gia. Không gian mạng đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành phá hoại kinh tế, tư tưởng, chính trị, quốc phòng, an ninh; là môi trường thuận lợi cho các tổ chức khủng bố, tội phạm hoạt động.

Thanh niên khi tham gia vào không gian mạng cần thiết phải tăng cường nâng cao ý thức chấp hành pháp luật là hoạt động có mục đích, có tổ chức của các lực lượng và bản thân thanh niên nhằm không ngừng lan toả những hành động thiết thực, hiệu quả trong học tập, công tác, lao động và rèn luyện:

Một là, từ vị trí, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng và phát triển đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, lớp lớp các thế hệ thanh niên đã nô nức lên đường tham gia chiến trận, không tiếc tuổi xuân, sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân. Những thắng lợi của dân tộc luôn gắn liền với tên tuổi của những chàng trai, cô gái với tuổi đời còn rất trẻ, họ đã làm bừng sáng lên khí phách, truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất, viết nên bản anh hùng ca về bản lĩnh, ý chí và sức mạnh con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc về kiến thức đã cho phép thanh niên không quản khó khăn, gian khổ, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất kỳ việc gì khi non sông đất nước cần.

Hai là, từ yêu cầu, nhiệm vụ của hội nhập ngày càng sâu rộng vào quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá, mở cửa, hội nhập và phát triển vào nền kinh tế thế giới đang đặt ra những yêu cầu rất cấp bách cho các chủ thể trong xã hội, nhất là với thanh niên cần trang bị cho mình sự hiểu biết toàn diện kiến thức về pháp luật để nắm được luật chơi, hoà nhập mà không hoà tan, giữ được giá trị văn hoá của dân tộc mình, không để đối phương đưa vào những thế bị động.

Ba là, từ thực trạng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của thanh niên trên không gian mạng thời gian qua. Việc tăng cường giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của thanh niên rất được các cơ quan, ban ngành tiến hành thường xuyên, có kế hoạch cụ thể, rõ ràng và đã có những chuyển biển tích cực. Nhiều tấm gương thanh niên chấp hành nghiêm ý thức pháp luật xuất hiện đã thực sự trở thành điểm sáng để nhắc nhở cho những người xung quanh lấy đó làm tấm gương để học tập, làm theo. Tuy nhiên, vẫn còn có một số ít thanh niên chấp hành không nghiêm pháp luật Nhà nước cảnh báo cho sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh niên, sự thiếu hiểu biết về pháp luật Nhà nước. Thực tế đó, đã và đang đặt ra cho mỗi cấp, ngành có những nhìn nhận, đánh giá đúng bản chất của từng sự việc, hiện tượng để phối hợp hành động, đưa thanh niên trở về với đúng con đường phát triển của tuổi trẻ, góp ích vào sự nghiệp dựng xây, kiến thiết đất nước. Theo đó cần thực hiện tập trung một số giải pháp nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên ở nước ta trên không gian mạng như:

Thứ nhất, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho thanh niên. Các chủ thể làm công tác quản lý cần đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng cho thanh niên có động cơ trong sáng, lành mạnh, ý thức cao trong chấp hành pháp luật khi tham gia bất kỳ các hoạt động nào.

Thứ hai, đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp cần căn cứ vào tính chất, yêu cầu nhiệm vụ, từng khu vực, địa bàn, đối tượng để xây dựng chương trình cho phù họp, bảo đảm ai cũng có thể hiểu và nắm được, tránh nội dung cao siêu, xa rời thực tiễn.

Thứ ba, phát huy vai trò của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các cấp trong tổ chức những hoạt động thực tiễn để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên.

Thứ tư, phát huy tinh thần tự học, tự rèn của thanh niên trong chấp hành nghiêm ý thức pháp luật của Nhà nước.

VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG VÀ THỰC HIỆN TỐT QUYỀN CON NGƯỜI

 

VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG VÀ THỰC HIỆN TỐT QUYỀN CON NGƯỜI

 

Ngày 18/10/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “ kiến thêm về Nghị định 126: Tổ chức, hoạt động, quản lý hội”, nội dung xuyên tạc, vu khống Nghị định 126 của Chính phủ mới ban hành là gia tăng sự kiểm soát của Nhà nước, hạn chế sự phát triển của các tổ chức xã hội độc lập và quyền tự do lập hội. Bài viết tập trung kích động tuyên truyền, bịa đặt với luận điệu: Nghị định ra đời nhằm đối phó áp lực quốc tế với nhu cầu gắt gao phải có bước tiến trong vấn đề nhân quyền và xã hội dân sự. Nhưng chính thực tiễn đã bác bỏ toàn bộ những lời lẽ xuyên tạc, suy diễn bịa đặt, phán bừa của y, bởi vì:

Thứ nhất, bảo vệ và thực hiện nghiêm túc quyền con người là ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Đảng ta luôn nhất quán xem quyền con người, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của nhân dân là mục tiêu hàng đầu. Trong các văn kiện của mình, Đảng ta luôn xác định con người là trung tâm của sự phát triển; coi con người là vốn quý nhất, chăm lo cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ. Mọi chủ trương, chính sách phát triển đều xuất phát từ con người, lấy con người làm trung tâm. Trong đó, phát triển kinh tế vì con người, phát triển các mặt về văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ môi trường cũng vì hạnh phúc của nhân dân. 

Đồng thời, Nhà nước luôn đặt quyền con người của công dân lên hàng đầu, sự tôn trọng và đảm bảo được quy định rõ trong Hiến pháp và các quy định của pháp luật. Ðiều 15, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

Trong Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Ðiều 331 quy định về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” là sự cụ thể hóa Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; giúp điều chỉnh, ngăn chặn, có chế tài đối với các hành vi vi phạm, lệch chuẩn trong các quan hệ xã hội, ngăn ngừa những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thực tế chứng minh, công dân Việt Nam có đầy đủ các quyền như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội, quyền khiếu nại, tố cáo… và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền đó. Việc mỗi tổ chức và cá nhân thông qua nhiều hình thức đa dạng để bày tỏ ý kiến cá nhân, nổi lên thời gian qua là việc thiết lập và sử dụng tài khoản mạng xã hội như là xu thế tất yếu trong bối cảnh của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ 4.0 hiện nay.

Thứ hai, thực thi quyền con người bảo đảm bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Tính ưu việt của chế độ dân chủ ở Việt Nam đã góp phần quan trọng trong xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Quốc hội đã từng bước cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng trong tổ chức hoạt động, trong lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao, nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đáp ứng được khát vọng của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Việt Nam. Thực tế chứng minh, công dân Việt Nam có đầy đủ các quyền như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội, quyền khiếu nại, tố cáo… và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền đó. Việc mỗi tổ chức và cá nhân thông qua nhiều hình thức đa dạng để bày tỏ ý kiến cá nhân, nổi lên thời gian qua là việc thiết lập và sử dụng tài khoản mạng xã hội như là xu thế tất yếu trong bối cảnh của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ 4.0 hiện nay.

Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ những tư tưởng, ý chí, nguyện vọng của mỗi tổ chức và cá nhân khi đưa lên công khai trên phương tiện truyền thông, trên mạng xã hội nếu phù hợp với tinh thần xây dựng và thượng tôn pháp luật, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và truyền thống văn hóa của dân tộc. Ðồng thời, nếu những tổ chức và cá nhân sử dụng mạng xã hội với mục đích xấu, động cơ không trong sáng, núp dưới danh nghĩa bảo vệ quyền tự do dân chủ mà thực chất là có những hành vi chà đạp lên quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác, xâm phạm đến Nhà nước thì đều phải chịu các chế tài xử phạt tương ứng. Ðiều này thể hiện rõ tính nghiêm minh của pháp luật, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các hành vi vi phạm pháp luật, răn đe, trừng phạt thích đáng đối với những đối tượng có hành vi vi phạm. 

Thực tiễn trên đã minh chứng cho việc nội dung bài viết đã xuyên tạc sự thật, lập luận vô căn cứ nhằm phủ nhận việc bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của Đảng và Nhà nước ta với mục đích làm suy giảm niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện rõ bộ mặt phản động, chống phá của các thế lực thù địch đối với đất nước ta hiện nay. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh vạch trần với những luận điệu nêu trên./.

BẢN SẮC DÂN TỘC GẮN KẾT TÌNH QUÂN DÂN

 

BẢN SẮC DÂN TỘC GẮN KẾT TÌNH QUÂN DÂN

 

Yêu thích những làn điệu hát ru, hát dân ca và nhạc cổ truyền, giữ gìn nét văn hóa dung dị song cũng rất sâu sắc, uyên bác của cha ông ta để lại, hơn 1.000 cán bộ, hội viên, chiến sĩ thuộc 38 cơ quan, đơn vị đã mang đến Liên hoan hát ru, hát dân ca và âm nhạc cổ truyền của dân tộc Việt Nam trong phụ nữ Quân đội năm 2024 những chương trình, tiết mục dàn dựng quy mô, giàu bản sắc.

Với chủ đề “Lời ru giữ bình yên Tổ quốc”, liên hoan được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát Quân đội (Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội) từ ngày 29-10 đến 1-11 đã để lại dấu ấn trong lòng khán giả.

Tình yêu Tổ quốc từ lời hát ru, hát dân ca

Đông đảo khán giả xem phần thi của Đoàn Bộ đội Biên phòng (BĐBP) với tiểu phẩm kịch hát dân ca đậm màu sắc xứ Nghệ mang tên “Bông hồng thép” đã không cầm được nước mắt. Trong những làn điệu dân ca mượt mà, sâu lắng của quê hương ví, giặm kết hợp với kịch hát dân ca Nghệ An, Hà Tĩnh, các “nghệ sĩ” BĐBP tái hiện hình ảnh câu chuyện kể về bộ đội Thanh-nữ cán bộ vận động quần chúng của Đồn Biên phòng Môn Sơn (BĐBP tỉnh Nghệ An) đã hết lòng chăm lo cho con em đồng bào dân tộc Đan Lai nơi vùng biên Tổ quốc. Cao trào của tiểu phẩm kịch dân ca là bộ đội Thanh không quản ngại hiểm nguy vượt qua mưa lũ để đi tìm một học sinh vì nhớ nhà mà bỏ ký túc xá. Bộ đội Thanh bị mưa lũ cuốn trôi, nhưng may mắn được đồng đội, bà con Đan Lai tìm thấy và cứu chữa tận tình. Khi vừa mở mắt tỉnh dậy, câu đầu tiên của bộ đội Thanh gấp gáp hỏi đồng chí của mình là đã tìm thấy em học sinh chưa?

Theo Thượng tá Đỗ Thị Hải Yến, Trợ lý phụ nữ BĐBP, “Bông hồng thép” dựa trên câu chuyện có thật của Đồn Biên phòng Môn Sơn. Nguyên mẫu là Trung tá QNCN Nguyễn Thị Trần Thanh (hiện nay chị đã chuyển sang Đồn Biên phòng Tam Hợp), đang công tác tại Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Nghệ An và sinh sống cùng gia đình ở TP Vinh, nhưng đã viết đơn tình nguyện lên biên giới công tác. Đồn Biên phòng Môn Sơn cũng là một trong những đơn vị tiêu biểu của BĐBP xây dựng và duy trì mô hình ký túc xá vùng biên. Thông qua hình tượng bộ đội Thanh trong tiểu phẩm, Chương trình “Biên cương thắm mãi lời ru” của phụ nữ BĐBP đã thể hiện được nhiều mô hình hay, ấn tượng của BĐBP như: “Con nuôi đồn biên phòng”; “Ký túc xá vùng biên”; câu lạc bộ đàn hát, dân ca và âm nhạc cổ truyền; giúp đỡ nhân dân trong công tác cứu hộ, cứu nạn, hướng dẫn nhân dân phát triển kinh tế-xã hội; tuyên truyền pháp luật, loại bỏ các hủ tục trong đồng bào các dân tộc thiểu số...

Thượng tá Đỗ Thị Hải Yến cho biết thêm, sở dĩ chọn màu sắc Quân khu 4 đi tham dự liên hoan lần này bởi các đơn vị nơi đây đang có những câu lạc bộ đàn, hát dân ca, hát ru và âm nhạc cổ truyền rất phát triển; ngoài nhiệm vụ công tác, chị em phụ nữ đã hướng dẫn nhau sưu tầm bài hát ru, hát dân ca của đồng bào các dân tộc để chuyển soạn lời mới sử dụng trong công tác tuyên truyền pháp luật, tảo hôn, phát triển kinh tế hiệu quả. Đặc biệt là nhiều chị em còn mở lớp truyền dạy, hướng dẫn phụ nữ và em nhỏ của đồng bào các dân tộc thiểu số hát ví, giặm.

Đoàn Quân khu 7 lại mang đến chương trình với chủ đề “Đất mẹ” thông qua những câu hò, điệu lý mang nét đặc trưng của miền Nam như: Lý quạ kêu, hát ru vọng cổ, lý năm căn, lý chiều chiều, lý kéo chài... “Đất mẹ” tái hiện một không gian từ cánh rừng bạt ngàn đến đồng lúa mênh mông, chảy trôi theo dòng sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ xuôi ra biển lớn, lời ru trên đất mẹ miền Đông đã đong đầy tuổi ấu thơ con với giấc mơ thần Phù Đổng vươn mây, cùng khí thế mạnh mẽ trong "Bình Ngô đại cáo" và ánh nắng Ba Đình rực rỡ. Lời ru ấy dạy con biết chiều sâu của nhân nghĩa thủy chung, hun đúc cho bao thế hệ sẵn sàng hiến dâng đời mình viết nên tên đất nước. 

Lan tỏa hồn quê

Có thể khẳng định, các đơn vị đã mang đến liên hoan nhiều tiết mục đặc sắc, phong phú về thể loại, đa dạng về nội dung; có nhiều hoạt cảnh hấp dẫn, sáng tạo; có cốt truyện, nổi bật chủ đề tư tưởng, phản ánh sát thực hoạt động của phụ nữ từng cơ quan, đơn vị trong việc lan tỏa tình yêu quê hương, đất nước, gắn kết tình quân dân. Tiêu biểu là các kịch bản: “Vọng mãi lời ru” của Quân khu 5; “Lời ru giữ bình yên Tổ quốc” của Tổng cục Chính trị; “Câu ví giặm dâng Người” của Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; “Lắng đọng những lời ru và khúc hát dân ca” của Quân đoàn 12; “Lời ru từ nơi gió ngàn” của Quân khu 1... Rất nhiều tiết mục đã nhận được tình cảm của khán giả bởi nội dung mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện được tình yêu thương con người và các giá trị truyền thống tốt đẹp.

Đại tá Nguyễn Thị Thu Hiền, Trưởng ban Phụ nữ Quân đội, Trưởng ban tổ chức liên hoan cho biết, thành công của liên hoan khẳng định tính hiệu quả trong triển khai mô hình Câu lạc bộ “Phụ nữ yêu thích và bảo tồn các làn điệu hát ru, hát dân ca” trong toàn quân; tạo nên không khí sinh hoạt văn hóa, tinh thần sôi nổi, góp phần vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị tại các cơ quan, đơn vị, vào kết quả Phong trào Thi đua Quyết thắng, kết quả thực hiện các nhiệm vụ quân sự quốc phòng và xây dựng gia đình hạnh phúc. Liên hoan đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, sức lan tỏa sâu rộng; góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống./.

NHỮNG “ĐỀ XUẤT” NGỚ NGẨN CỦA TRẦN VĂN CHÁNH

 

NHỮNG “ĐỀ XUẤT” NGỚ NGẨN CỦA TRẦN VĂN CHÁNH

Mỗi kỳ Đại hội Đảng toàn quốc là một dấu mốc rất quan trọng, là dịp để Đảng ta đánh giá, tổng kết một cách toàn diện nhất, sâu sắc nhất những đường lối, chủ trương, chính sách và mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước đã đề ra trong nhiệm kỳ vừa qua. Qua đó, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết vượt qua mọi khó khăn thách thức trong công cuộc xây dượng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, với mục tiêu xuyên suốt, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, càng gần đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV,  các thế lực thù địch, phản động càng gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá. Mới đây, trên trang Vietin.de, Trần Văn Chánh đã có bài viết: “Việt Nam muốn lột xác ư? Chỉ thay đổi một cách làm là được….”

Đọc bài viết của Trần Văn Chánh thấy rằng, Y luyên thuyên đủ điều từ, chuyện họp hành của các cơ quan Đảng, Nhà nước; rồi gợi ý rằng: Báo cáo chính trị viết ngắn lại (còn khoảng 20 trang đến 30 trang giấy in sách khổ A5) và bản nghị quyết (còn khoảng 8-10 trang) rút ngắn thời gian họp…. Sau đó, Y “tham mưu” rằng: nên chăng đặt ra vấn đề kiên quyết dứt khoát dẹp bỏ loại Đại hội 5 năm và các bản báo cáo chính trị, nghị quyết kèm theo; đương nhiên điều này cũng có nghĩa là sẽ không còn các cái tiểu ban gọi là nhân sự hay văn kiện gì nữa. Đọc những “ý tưởng sáng tạo” mà Trần Văn Chánh nêu ra chắc chúng ta đều biết “tâm đen” của Y là gì rồi.

Thứ nhất, Trần Văn Chánh cần nhận thức cho đúng về nghị quyết là gì?

Theo Quyết định số 31-QĐ/TW, ngày 01/01/1997 của Bộ Chính trị khoá VIII, ban hành quy định về thể loại, thẩm quyền ban hành và thể thức văn bản của Đảng, thì “nghị quyết là văn bản ghi lại các quyết định được thông qua ở đại hội, hội nghị cơ quan lãnh đạo đảng các cấp, hội nghị đảng viên về đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch các vấn đề cụ thể”. Nghị quyết phải có thông tin đầy đủ, đánh giá và dự báo đúng tình hình, nắm vững dư luận, tâm tư, nguyện vọng của đảng viên và xã hội, xác định vấn đề nổi cộm, bức xúc cần giải quyết, trên cơ sở đó, định hướng vấn đề và chủ đề để ra nghị quyết. Các nghị quyết không được trái hoặc đối lập với nghị quyết Đại hội, với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng. Một nghị quyết của Đảng phải kết hợp được “ý Đảng, lòng dân, phép nước”. “Ý Đảng”, thể hiện sự phản ánh và tôn trọng quy luật khách quan dựa trên mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Lòng dân” bao gồm ý chí, nguyện vọng, lợi ích của đa số nhân dân về mọi mặt của đời sống chính trị, tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xã hội…; nghị quyết phải thể hiện và đáp ứng được những lợi ích sống còn của nhân dân và đất nước. “Phép nước” là sự thể hiện nghiêm minh của pháp luật.

Nghị quyết của Đảng phải đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, động viên nhân dân tích cực tham gia thực hiện nghị quyết. Các Mác đã từng chỉ rõ: Một khi tư tưởng tách rời khỏi lợi ích, thì bản thân tư tưởng tự nó làm nhục nó. Chỉ khi nào nghị quyết thể hiện lợi chính đáng của nhân dân thì sẽ giành được sự đồng tình, hưởng ứng của họ. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng khẳng định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân”. Với những quyết sách trọng đại và vô cùng lớn lao đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của cả dân tộc như vậy, thế mà Trần Văn Chánh lại cho rằng: Báo cáo chính trị viết ngắn lại (còn khoảng 20 trang đến 30 trang giấy in sách khổ A5) và bản nghị quyết (còn khoảng 8-10 trang) rút nghắn thời gian họp….Thử hỏi, với số trang mà Trần Văn Chánh đưa ra, liệu có đề cập hết “ý Đảng, lòng dân, phép nước” trong Báo cáo chính trị và Nghị quyết của một Đại hội Đảng toàn quốc?.

Thứ hai, Nghị quyết phải dự báo được tương lai phù hợp với xu thế vận động khách quan của thực tiễn; phải giải quyết được những vấn đề thực tiễn đang đặt ta.

Nghị Quyết các kỳ Đại hội của Đảng đều phải đề ra quan điểm, chủ trương, định hướng xây dựng, phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Phải có tính dự báo những hiện tượng, sự kiện và quá trình có thể, hay tất nhiên sẽ xảy ra, việc  dự báo đó phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Ví như, tịch Hồ Chí Minh đã dự báo chính xác về cuộc cách mạng ở nước ta, Người viết “Lịch sử nước ta” vào tháng 2 năm 1942, thể hiện dự báo chính xác về việc năm 1945, Việt Nam độc lập. Và năm 1960, trong một bút tích của Bác, Người dự báo năm 1975, miền Nam Việt Nam sẽ được giải phóng….

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, dựa vào sự hiểu biết những quy luật kinh tế khách quan của chủ nghĩa xã hội, nghị quyết của Đảng phải vạch ra được con đường xây dựng và phát triển đất nước hôm nay và mai sau. Việc dự báo một cách khoa học và đi từ thực tiễn sẽ làm cho nghị quyết có khả năng định hướng đúng đắn những tình hình phức tạp nhất, đưa ra được những quyết sách cần thiết, tìm ra được những phương pháp, hình thức thích hợp với quá trình diễn biến để hành động một cách tin tưởng, vững chắc. Như vậy, nghị quyết phải có quan điểm rõ ràng, chính xác về nội dung, giải pháp mang tính khả thi cao, có tính lý luận sâu sắc, lập luận phải chặt chẽ và phải thật sát với tình hình thực tế của đất nước. Một yêu cầu cao như vậy, mà Trần Văn Chánh cho rằng: nên chăng đặt ra vấn đề kiên quyết dứt khoát dẹp bỏ loại Đại hội 5 năm và các bản báo cáo chính trị, nghị quyết kèm theo; đương nhiên điều này cũng có nghĩa là sẽ không còn các cái tiểu ban gọi là nhân sự hay văn kiện gì nữa. Vậy thử hỏi, nếu bỏ tiểu ban văn kiện như Y nói, thì một người có đảm đương được việc chuẩn bị các văn kiện Đại hội của Đảng để đáp ứng được các yêu cầu như đã đề cập ở trên?

Tóm lại, tất cả những nội dung mà Trần Văn Chánh nêu trong bài viết của Y, thực chất nhằm tuyên truyền chống phá Đại hội đại biểu toàn quốc lần thưc XIV của Đảng ta diễn ra vào đầu năm 2026. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam cần cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc của Y và đồng bọn./.

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM

 

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM

Gần đây, trang Daploisongnui.org đăng tải bài viết: “Sự khác nhau giữa đối tác kiếm ăn và đồng minh ý thức hệ cộng sản”, xuyên tạc rằng: “Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 quốc gia, thì có 6 quốc gia dân chủ tư bản phát triển; Việt Nam vẫn là một quốc gia tụt hậu, hay không muốn nói là nghèo khổ so với các lân bang, chứ chưa cần với quốc gia phát triển; Việt Nam ký kết hợp tác chiến lược toàn diện, nó không giúp ích gì cho sự phát triển của quốc gia; mô hình chính trị của Việt Nam hoàn toàn khác biệt so với các quốc gia dân chủ; chế độ của chúng ta thiếu tôn trọng nhân quyền, không dặt con người là trung tâm của sự phát triển”…

  1. Thực chất đây là những quan điểm sai trái, thù địch của một số người tự xưng là “người yêu nước”, “nhà dân chủ”, “học giả” thù địch; thường xuyên tung hỏa mù, “chọc gậy bánh xe”, vừa cố tình vu cáo, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, vừa phá hoại đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam, hạ thấp uy tín, vai trò của Việt Nam với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc. Lợi dụng các bài viết dưới mác “phân tích cơ sở khoa học” nhằm phủ định nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cố tình suy diễn, xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng còn cho rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược toàn diện, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình… Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia…bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, phát tán những thông tin sai lệch, bịa đặt, nhằm mục đích tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam. Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những năm qua, đó là: Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
  2. Chuyến công tác, làm việc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ càng có ý nghĩa quan trọng khi diễn ra vào thời điểm tròn một năm Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, cũng như trước thềm kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao. Đây là dịp để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua, đúc rút, chia sẻ và lan toả những bài học, kinh nghiệm hay về quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tôn vinh và tri ân những thế hệ bạn bè đã và đang tích cực đóng góp cho quan hệ hai nước. Bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ hay giữa Việt Nam với quốc gia nào trên thế giới đều là tất yếu khách quan, phù hợp xu thế chung của thời đại.

Điều đó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia – dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam cũng đã tích cực tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế lớn và nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế, đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển của khu vực và thế giới; xây dựng mối quan hệ tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau.

  1. Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế.

Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước – đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia. Trong giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định là phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ, bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế… Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước ta đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Trong đối ngoại của Việt Nam, Đảng ta luôn xác định, đối tác chiến lược toàn diện là một dạng thức quan hệ có tầm quan trọng lớn và có tính chiến lược, dài hạn giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa quốc gia với tổ chức quốc tế và là một hình thức của quan hệ đối tác chiến lược bên cạnh các hình thức khác như đối tác chiến lược, đối tác chiến lược lựa chọn theo từng lĩnh vực, đối thoại chiến lược. Hiện nay đối tác chiến lược toàn diện là cấp cao nhất trong hệ thống thứ bậc đối tác ngoại giao ở Việt Nam. Với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, các bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên mọi lĩnh vực mà các bên cùng có lợi và hướng tới lòng tin chiến lược. Việt Nam hiện đã có 8 quốc gia là đối tác chiến lược toàn diện gồm Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia và Pháp; đồng thời ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)… Tính đến tháng 9/2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng.

Đó là những vấn đề thực tế không thể chối cãi được, nó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia – dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Đó là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu bôi nhọ, chống phá, những hành động trơ trẽn và lạc lõng của các thế lực thù địch./.

LUẬN ĐIỆU PHẢN ĐỘNG CỦA NGUYÊN ANH

 

LUẬN ĐIỆU PHẢN ĐỘNG CỦA NGUYÊN ANH

Mới đây, trên trang mạng xã hội Quyenduocbiet.com, Nguyên Anh có giật tít: “Kiên định con đường XHCN đến bao giờ?”. Trong bài viết, y đưa ra nhiều thông tin sai sự thật, bóp méo tình hình đất nước, xuyên tạc, phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam cho rằng: “VN muốn thay đổi phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, chủ thuyết Mác – Lê vì nó đã quá lạc hậu so với thế giới ngày nay”. Đây là một luận điệu hết sức phản động, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Nguyên Anh. Song, luận điệu phản động của y bị lịch sử và thực tiễn sống động ở Việt Nam hiện nay bác bỏ. Bởi lẽ:

Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết cách mạng, khoa học, soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác – Lênin là khoa học về những quy luật phát triển chung nhất của tự nhiên, của xã hội và của tư duy, về cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại mọi sự áp bức, bất công; Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời trên mảnh đất hiện thực là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, lực lượng xã hội đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất của lịch sử phát triển nền sản xuất vật chất của nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin là sự tổng hòa từ nhiều nguồn tri thức của loài người, thu nhận tinh hoa từ các tư tưởng tiến bộ, đồng thời không ngừng được bổ sung, hoàn bị bằng những kinh nghiệm từ thực tiễn lịch sử được khái quát lên tầm lý luận. Về lôgic, chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời không nhằm mục đích tự thân mà nhằm đấu tranh để cải tạo thế giới, hướng đến giá trị nhân văn cao cả đó là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cách mạng các nước, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Từ khi được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã khắc phục được sự khủng hoảng về đường lối và lực lượng lãnh đạo cách mạng, đưa đất nước phát triển phù hợp xu hướng thời đại; giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thành công của sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua trước hết là thành công của đổi mới tư duy với nguyên tắc xuất phát từ thực tiễn, trung thành và sáng tạo. Với thế giới quan, phương pháp luận khoa học, Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phương hướng nhận thức, hành động, giúp cho Đảng dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, lấy dân làm gốc, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa đã đem lại những chuyển biến tích cực, rõ rệt, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao ở Việt Nam.

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử, thay đổi đời sống mọi mặt của người dân: tăng trưởng kinh tế luôn đạt 6% đến 7%/năm; quy mô nền kinh tế đất nước năm 2023 đạt 430 tỉ đô la, vươn lên đứng thứ 4 ở khu vực Đông Nam Á và tốp 40 của thế giới; thu nhập bình quân đầu người đạt 4.284,5 đô la/người/năm[1]; lạm phát ở mức thấp; đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện; tình hình chính trị và xã hội ổn định; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Năm 2006, Việt Nam tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam thay đổi. Việt Nam cũng là nước nằm trong nhóm đầu trong số năm không sống khỏe theo tỷ lệ phần trăm tuổi thọ (11,7%) và số giường bệnh (32 giường/100 nghìn dân)[2]…. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được thời gian qua chứng minh rằng: phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – con đường mà Đảng, Bác Hồ, các thế hệ cha anh đã lựa chọn và đổ biết bao mồ hôi xương máu mới giành được.

Vì vậy, luận điệu của Nguyên Anh đưa ra đã thể hiện rõ bộ mặt của kẻ phản động, chống phá cách mạng nước ta. Do đó, mọi người cần nâng cao cảnh giác và đấu tranh bác bỏ. Đồng thời, chúng ta luôn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay./.