Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020

VIỆT NAM TĂNG CƯỜNG ĐẢM BẢO AN NINH THÔNG TIN

 

VIỆT NAM TĂNG CƯỜNG ĐẢM BẢO AN NINH THÔNG TIN


Đài phản động RFA xuyên tạc Việt Nam vi phạm dân chủ

Chúng ta đều biết rằng hệ thống thông tin của Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ, phục vụ đắc lực sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước, đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội, góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. Lĩnh vực viễn thông, Internet, tần số vô tuyến điện có sự phát triển mạnh mẽ, đạt được mục tiêu số hóa hoàn toàn mạng lưới, phát triển nhiều dịch vụ mới, phạm vi phục vụ được mở rộng, bước đầu hình thành những doanh nghiệp mạnh, có khả năng vươn tầm khu vực, quốc tế. Hệ thống bưu chính chuyển phát, báo chí, xuất bản phát triển nhanh cả về số lượng, chất lượng và kỹ thuật nghiệp vụ, có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.

Tuy nhiên, tình hình an ninh thông tin ở Việt Nam đã và đang có những diễn biến phức tạp. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các thế lực thù địch, phản động tăng cường hoạt động tình báo, gián điệp, khủng bố, phá hoại hệ thống thông tin; tán phát thông tin xấu, độc hại nhằm tác động chính trị nội bộ, can thiệp, hướng lái chính sách, pháp luật của Việt Nam. Gia tăng hoạt động tấn công mạng nhằm vào hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Theo thống kê, trung bình mỗi năm, qua kiểm tra, kiểm soát các cơ quan chức năng đã phát hiện trên 850.000 tài liệu chiến tranh tâm lý, phản động, ân xá quốc tế, tài liệu tuyên truyền tà đạo trái phép; gần 750.000 tài liệu tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước được tán phát vào Việt Nam qua đường bưu chính. Từ 2010 đến 2019 đã có 53.744 lượt cổng thông tin, trang tin điện tử có tên miền .vn bị tấn công, trong đó có 2.393 lượt cổng thông tin, trang tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà nước “.gov.vn”, xuất hiện nhiều cuộc tấn công mang màu sắc chính trị, gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Tội phạm và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thông tin diễn biến phức tạp, gia tăng về số vụ, thủ đoạn tinh vi, gây thiệt hại nghiêm trọng về nhiều mặt. Các hành vi phá hoại cơ sở hạ tầng thông tin; gây mất an toàn, hoạt động bình thường, vững mạnh của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và hệ thống thông tin vô tuyến điện,… đã và đang gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Theo kết quả đánh giá an ninh mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện, trong năm 2019, chỉ tính riêng thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới 20.892 tỷ đồng (tương đương 902 triệu USD), hơn 1,8 triệu máy tính bị mất dữ liệu do sự lan tràn của các loại mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền (ransomware), trong đó có nhiều máy chủ chứa dữ liệu của các cơ quan, gây đình trệ hoạt động của nhiều cơ quan, doanh nghiệp.

Hệ thống thông tin của Việt Nam còn tồn tại nhiều điểm yếu, lỗ hổng bảo mật dễ bị khai thác, tấn công, xâm nhập; tình trạng lộ, mất bí mật nhà nước qua hệ thống thông tin gia tăng đột biến; hiện tượng khai thác, sử dụng trái phép cơ sở dữ liệu, tài nguyên thông tin quốc gia, dữ liệu cá nhân người dùng diễn biến phức tạp; xuất hiện nhiều dịch vụ mới, hiện đại gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát của các cơ quan chức năng. Thực tế nêu trên đã làm xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa đến an ninh thông tin của Việt Nam ở cả bên trong và bên ngoài. Ở trong nước, trước hết là nguy cơ tụt hậu về công nghệ, lệ thuộc vào công nghệ của nước ngoài, nhất là hệ thống mạng lõi; phần mềm hệ thống, dịch vụ thông tin của nước ngoài (nhất là dịch vụ mạng xã hội) dẫn tới mất chủ quyền nội dung số, tài nguyên thông tin về các công ty công nghệ nước ngoài ngày càng nghiêm trọng hơn; các đối tượng cơ hội, chống đối chính trị trong nước, triệt để sử dụng mạng xã hội tán phát thông tin giả, thông tin xấu, độc nhằm gây rối nội bộ, kích động biểu tình, bạo loạn.

Mặt khác, các thế lực thù địch triệt để sử dụng hệ thống thông tin để tác động, can thiệp nội bộ, hướng lái chính sách, thao túng dư luận, thúc đẩy “cách mạng màu” ở Việt Nam; xâm phạm độc lập, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, tiến hành chiến tranh thông tin đối với Việt Nam. Các tổ chức phản động lưu vong, khủng bố tăng cường hoạt động tấn công, phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; sử dụng không gian mạng để tán phát thông tin xấu, độc hại, kích động biểu tình, bạo loạn; hình thành các hội, nhóm, các tổ chức chính trị đối lập,… Các tổ chức tin tặc, tổ chức tội phạm thực hiện các cuộc tấn công mạng tự phát, đơn lẻ hoặc có chủ đích nhằm vào hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia, làm tê liệt, gây gián đoạn hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý kinh tế-xã hội của các cơ quan Đảng, Nhà nước.

Trong bối cảnh đó, việc Đảng, Nhà nước Việt Nam tăng cường công tác đảm bảo an ninh thông tin là điều hiển nhiên. Qua đó, nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh thông tin. Nhất là, tập trung xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh thông tin, tạo môi trường pháp lý để bảo đảm sự an toàn, tin cậy cho nền kinh tế số, cho việc chia sẻ dữ liệu số, cho quản lý hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin qua biên giới vào Việt Nam.

Đừng để ngập chân trong “ma trận” xuyên tạc về chủ quyền lãnh thổ


Thứ Năm, ngày 31 tháng 12 năm 2020

Đừng để ngập chân trong “ma trận” xuyên tạc về chủ quyền lãnh thổ


Tuần tra bảo vệ biển đảo. Ảnh minh họa: TTXVN

Lâu nay, vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia được coi là “mảnh đất vàng” để các thế lực thù địch, bất mãn, cơ hội lợi dụng xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Bóc trần, phản bác và kiên trì đấu tranh với những âm mưu kiểu này chính là hành động thiết thực góp phần vào việc bảo vệ chủ quyền hợp pháp, thiêng liêng của đất nước.

"Ngón nghề" khó bỏ

Có thể nói rằng, lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền về biển, đảo để xuyên tạc sự thật, kích động dư luận và gây rối vốn là “nghề” của các thế lực thù địch muốn chống phá Việt Nam. Và như một thói xấu cố hữu, thường thì cứ mỗi khi nước ta đứng trước những sự kiện trọng đại, ngón nghề này lại được chúng tung ra để phá bĩnh, làm đảo lộn tình hình.

Trong những ngày toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang phấn khởi chào mừng sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, dư luận tiến bộ trong nước và quốc tế không khỏi bức xúc khi trên mạng xã hội xuất hiện những thông tin xuyên tạc vấn đề chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chỉ cần bớt chút thời gian suy ngẫm, đối chiếu và nhìn nhận một cách thấu đáo, có thể kết luận đây là luận điệu của các phần tử cơ hội, phản động, thường xuyên rình rập cơ hội để chống Đảng, chống Nhà nước và gây xáo trộn cuộc sống ổn định, hòa bình hiện nay của nhân dân Việt Nam. Ở đâu đó, trên các trang mạng xã hội hay các diễn đàn quy tập nhiều phần tử bất mãn, rêu rao rằng: “Đảng, Nhà nước Việt Nam coi trọng việc tổ chức đại hội Đảng hơn vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo”; hoặc cố tình xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương đấu tranh giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc thông qua những “thuyết âm mưu” nhuốm màu kích động như: Việt Nam lôi bè kéo cánh, đi với nước này, chống nước kia;  và rằng, không đánh nhau thì mất biển, mất đảo, thế nước lâm nguy...

Vạch trần chân tướng và đường đi của những chiêu trò này là việc nhất thiết phải bàn, phải làm. Có thể tự hào khẳng định rằng, lịch sử quá trình dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển đất nước đã chứng minh, trong mỗi người dân Việt Nam là một trái tim yêu nước. Khi chủ quyền lãnh thổ quốc gia đứng trước những thách thức hoặc bị xâm phạm, lòng yêu nước được người dân thể hiện bằng cách dồn tối đa sự quan tâm, thường xuyên dõi theo những thông tin liên quan. Lợi dụng tâm lý này, các đối tượng thù địch đưa ra những thông tin sai sự thật hòng bẻ lái dư luận, kích động người dân nhằm mục đích cuối cùng là xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và quân đội. Cụ thể, cùng với việc phê phán các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền Việt Nam, các đối tượng này cũng đồng thời quy chụp lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước ta "phản ứng chậm" hoặc "né tránh, không dám đối đầu, đang tâm để chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị đe dọa” (!). Mưu đồ cốt lõi của những luận điệu này là khiến lòng dân mất yên, dần mất niềm tin vào lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Càng nguy hiểm hơn khi nhiều đối tượng lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền biển, đảo để kích động, kêu gọi người dân “xuống đường” thể hiện lòng yêu nước, từ đó gây mất an ninh, trật tự xã hội và kiếm cớ để tiếp tục chống phá.

Một thực tế khác cần nhìn nhận, đó là trong khi đa số người dân nhận thức đúng đắn về quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, gần như “miễn nhiễm” với những luận điệu xuyên tạc, hồ đồ và cũ rích ấy, thì vẫn còn khá nhiều người "sập bẫy", trong đó chủ yếu là những người mới hoặc ít tiếp xúc với internet, mạng xã hội. Sự thiếu nhận thức đúng đắn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước khiến họ chưa kịp chắt lọc thông tin đúng-sai, dễ bị cuốn vào “ma trận phản động” trên internet.

Sự thật nằm trong những cái đầu tỉnh táo

Cùng với việc nhận diện âm mưu của các thế lực thù địch chống phá sự ổn định của Việt Nam thông qua chiêu bài về chủ quyền lãnh thổ, việc nắm vững chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, tỉnh táo để hấp thụ đầy đủ bản chất của vấn đề là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi chúng ta.

Trước hết, phải nhắc lại rằng, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta là kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Điều này đã được nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và được chứng minh trong cách thức Việt Nam giải quyết vấn đề Biển Đông, với tinh thần thượng tôn pháp luật, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); kiềm chế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).

Quan điểm xuyên suốt này còn được nêu rõ trong các phát biểu của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và quân đội. Trong cuộc tiếp xúc cử tri quận Ba Đình (Hà Nội) vào giữa tháng 10-2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định quan hệ đối ngoại của Việt Nam thời gian qua rất tốt, bằng chứng là 192 nước đã nhất trí bầu Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Cùng với đó, kinh tế đối ngoại cũng không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, một số khu vực, địa bàn còn tiềm ẩn sự phức tạp về an ninh-trật tự, nhất là về vấn đề lãnh thổ, biên giới, biển đảo. Cũng tại cuộc tiếp xúc đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước kêu gọi cử tri cảnh giác với những quan điểm cực đoan về vấn đề Biển Đông và khẳng định cần phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không bao giờ nhân nhượng trước những vấn đề thuộc về chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Hay như tại lễ công bố Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, cùng với việc nhấn mạnh chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ của Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã nêu rõ: “Chúng ta mong muốn hòa bình, chủ trương giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Chúng ta xây dựng quốc phòng cũng vì mục đích hòa bình. Nếu một khi đất nước chúng ta bị chiến tranh, chúng ta buộc lòng phải cầm súng thì chúng ta cũng phải cầm súng vì hòa bình. Chúng ta chỉ sử dụng sức mạnh quốc phòng trong tình huống tự vệ khi đất nước bị xâm hại, trước hết là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân tộc, sự ổn định của chế độ”.

Ngoài ra, Sách trắng Quốc phòng cũng khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam là "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế", "không tham gia liên minh quân sự", và bởi vậy, quan điểm cho rằng Việt Nam “bài nước này, thân nước kia” hay “đi theo nước này, chống nước kia”, suy cho cùng chỉ là dối trá, lừa phỉnh dư luận.

Những bài học đắt giá từ các cuộc chiến tranh trong quá khứ đã khiến nhiều nước, trong đó có cả những quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh, đang đi theo hướng lấy đối thoại, luật pháp quốc tế làm “kim chỉ nam” cho mọi hành động liên quan đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ, thay vì cổ xúy cho xung đột và đối đầu. Điều đó càng chứng minh rằng quan điểm, chủ trương, đường lối, đối sách của Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia và giải quyết các vấn đề liên quan là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia cũng như cuộc sống hòa bình, ổn định hiện có, là vấn đề chiến lược, việc đại sự, đòi hỏi phải có chủ trương, đường lối, đối sách đúng đắn, phù hợp, hiệu quả và bền vững. Do đó, chúng ta cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác trước các chiêu trò, luận điệu kêu gào, xuyên tạc, kích động để không mắc mưu những phần tử xấu và thế lực thù địch để rồi ngập chân trong thứ “ma trận” quái gở mà chúng cố tình giăng ở khắp nơi

Hiện thực hóa quyền con người bằng những chính sách thiết thực, việc làm nhân văn

 

Hiện thực hóa quyền con người bằng những chính sách thiết thực, việc làm nhân văn


(Ảnh minh họa: TTXVN)

Mỗi khi đến dịp Ngày Nhân quyền thế giới (10/12) hằng năm, các thế lực thù địch, phản động và đối tượng cơ hội chính trị lại tung ra những luận điệu cũ rích nhằm xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người.

Những luận điệu bịa đặt đó hoàn toàn vô căn cứ bởi từ khi lập quốc theo chế độ mới đến nay, Việt Nam luôn thực hiện mục tiêu, chính sách nhất quán là tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tất cả những giá trị tốt đẹp thuộc về quyền lợi cơ bản của con người.

1. Quyền con người là giá trị phổ quát của nhân loại và được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận, trong đó có Việt Nam. Tuy vậy, khi nhìn nhận vấn đề quyền con người, quyền công dân cần phải có quan điểm khách quan, toàn diện gắn với thể chế chính trị, lịch sử, văn hóa truyền thống và điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia dân tộc. Không nên xem xét, nhận định quyền con người, quyền công dân theo con mắt “thầy bói xem voi”, chỉ nhìn thấy vài ba hiện tượng bên ngoài rồi đánh giá thành bản chất. Vì cách nhìn nhận hẹp hòi, thiên kiến như vậy có thể tạo ra mâu thuẫn, xung khắc giữa chủ thể nhận định, đánh giá và đối tượng bị nhận định, đánh giá, từ đó gây bất lợi cho việc củng cố mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển giữa các quốc gia trên thế giới.

Là một nước đang phát triển, Việt Nam luôn thiện chí hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm không ngừng cải thiện, bảo đảm những quyền cơ bản, chính đáng của con người. Nhưng chúng ta không chấp nhận một số tổ chức phi chính phủ ở nước ngoài như: Theo dõi nhân quyền thế giới (HRW), Phóng viên không biên giới (RSF) thường xuyên có cái nhìn sai trái, nhận định rất thiếu khách quan về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng đề cao cảnh giác, kiên quyết vạch trần, lên án những phần tử có tư tưởng thâm thù với chế độ, cũng như các đối tượng đội lốt “đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền” nhưng lại có lời lẽ đơm đặt, bôi nhọ những giá trị cơ bản của quyền con người chân chính và rêu rao xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam không tôn trọng, bảo đảm quyền con người nhằm mưu đồ chống phá cách mạng Việt Nam.

2. Khi nói đến một thể chế chính trị tiến bộ, một quốc gia văn minh, thì không thể không nói đến thể chế chính trị, quốc gia đó có quan tâm đến việc bảo đảm những quyền cơ bản của con người hay không. Chế độ chính trị XHCN mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng, thực hiện là một chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, từ khi lập quốc theo thể chế dân chủ XHCN đến nay, Việt Nam đã kiên trì theo đuổi mục tiêu không ngừng thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm quyền con người cho mọi người dân.

Tuy không phải là quốc gia đầu tiên đề ra các vấn đề về quyền cơ bản của con người, nhưng Việt Nam là một trong số ít quốc gia sớm tiếp cận về quyền con người. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, thông qua khẳng định các giá trị của một dân tộc là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh quyền con người chỉ thực sự được bảo đảm khi gắn liền với quyền độc lập, tự do của dân tộc.

Quốc hiệu Việt Nam từ khi thành lập chính quyền cách mạng đến nay cũng nhất quán một khẩu hiệu: “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”. Điều đó có nghĩa là, mục tiêu trước sau như một mà cả dân tộc Việt Nam kiên trì thực hiện là bảo đảm dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.

Nếu bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” mà Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10-12-1948, trong đó vấn đề hàng đầu mà tuyên ngôn này khuyến nghị cộng đồng quốc tế và các quốc gia dân tộc phải thực hiện là bảo đảm “Tự do, công lý và hòa bình”; thì vấn đề quyền tự do trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nêu ra trước 3 năm so với bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”. Nhắc lại điều đó để thấy, với tầm nhìn vượt thời đại của mình, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân và dân tộc Việt Nam khẳng định Việt Nam luôn tôn trọng các giá trị quyền con người và cam kết thực hiện quyền con người trước cộng đồng quốc tế ngay từ khi thành lập chính quyền cách mạng công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Qua nhiều lần xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, từ các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đến Hiến pháp năm 2013 luôn giữ một vấn đề căn cốt là hiến định các quyền con người và quyền công dân. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 đã thiết kế một chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngay sau Điều 1 hiến định về chủ quyền địa lý, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, đó là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Cũng lần đầu tiên, chữ “Nhân Dân” được viết hoa trong bản Hiến pháp để nhấn mạnh đến vị trí, vai trò quyết định của nhân dân trong tiến trình lịch sử và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn 2014-2019, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 100 văn bản luật và pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

3. Do trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân đế quốc kéo dài suốt ba thập niên (1945-1975) và chịu ảnh hưởng, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội khoảng chục năm sau khi đất nước thống nhất, dù rất quan tâm, song Việt Nam chưa có nhiều điều kiện thuận lợi để bảo đảm thực sự đầy đủ các quyền con người.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc và bảo đảm tốt hơn quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Thành tựu về quyền con người ở Việt Nam trong hơn 70 năm qua thể hiện trên mọi lĩnh vực, nhất là những bước tiến vượt bậc về phát triển kinh tế trong gần 35 năm đổi mới (1986-2020). Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quy mô nền kinh tế năm 1985 mới có 14 tỷ USD, thì đến năm 2019 đạt 262 tỷ USD, tăng gấp hơn 18,7 lần. Mới đây, Tạp chí The Economist tháng 8/2020 đã xếp Việt Nam trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Mặc dù chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, trong khi phần lớn các nền kinh tế trên thế giới rơi vào suy thoái, nhưng nhờ sự chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ, năm 2020, Việt Nam vẫn duy trì được tăng trưởng dương ở mức khá. Nhìn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB) so sánh mức sống với các nước trên thế giới, thu nhập của người dân Việt Nam năm 2020 tương đương gần 9.000USD (tính theo ngang bằng sức mua).

Sự tăng trưởng kinh tế là cơ sở, tiền đề để Nhà nước chăm lo thực hiện tốt các chính sách an sinh, văn hóa xã hội. Điều đó được thể hiện ở “Chỉ số phát triển con người” (HDI). Theo Báo cáo “Phát triển con người năm 2019” được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố ngày 9/12/2019, với chỉ số HDI là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng 4,8 năm, số năm đi học trung bình tăng 4,3 năm, thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng trên 354%. Điều này giúp Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số HDI cao nhất trên thế giới. Theo nhận định của bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú UNDP ở Việt Nam: “Việt Nam đã đạt được tăng trưởng đáng kể trong phát triển con người kể từ năm 1990 đến nay. Điều đó chứng tỏ Việt Nam đã có những bước tiến bộ trong thực hiện chính sách chăm lo phát triển con người toàn diện”.

Một trong những thành tựu về nhân quyền đáng kể là Việt Nam đã quan tâm thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản cho nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành 118 chính sách liên quan đến việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống và bảo đảm an sinh cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhờ thực hiện đồng bộ các chính sách đó, tỷ lệ nghèo đa chiều ở Việt Nam giảm từ 9,88% (năm 2015) xuống còn 3,73% (năm 2019). Cả nước hiện có gần 3 triệu người nghèo, người yếu thế được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Đặc biệt, Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo-Không để ai bị bỏ lại phía sau” trong những năm qua đã nhận được sự hưởng ứng sâu rộng, hiệu quả của toàn xã hội. Chỉ tính trong dịp “Ngày vì người nghèo” 17/10/2020 vừa qua, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã kêu gọi, huy động được gần 2.400 tỷ đồng ủng hộ Quỹ Vì người nghèo và an sinh xã hội.

Từ một nước lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, sau hơn 70 năm huy động sức dân, đồng lòng thực hiện sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hòa bình, độc lập, được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước tiên phong và là điểm sáng về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và nhiều cơ quan truyền thông uy tín của quốc tế đánh giá là một trong số ít quốc gia đã kiểm soát, khống chế thành công đại dịch Covid-19, do vậy, Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ người bị lây nhiễm và tử vong vì dịch Covid-19 thấp nhất trên thế giới. Kết quả này thêm một lần chứng tỏ Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn ưu tiên cao nhất để bảo đảm quyền được sống an toàn, khỏe mạnh cho mọi người dân-một trong những giá trị cao cả của quyền con người.

Là một quốc gia đang phát triển, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, hiện nay Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thử thách. Nhưng với bản chất của một chế độ xã hội ưu việt mà cả dân tộc đã tự nguyện lựa chọn và kiên trì thực hiện, thông qua chủ trương, đường lối phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn và hợp xu hướng thời đại, Việt Nam ngày càng có điều kiện tạo ra những tiền đề cơ sở vật chất, văn hóa để bảo đảm tốt hơn các quyền cơ bản của con người.

Việc Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu xây dựng đất nước theo định hướng XHCN “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với hàm ý nhấn mạnh Việt Nam luôn kiên trì, nỗ lực bảo đảm “quyền sung sướng” (dân giàu) và “quyền tự do” (dân chủ) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nêu ra trong bản Tuyên ngôn Độc lập. Khi quốc gia giàu có về vật chất, văn hóa, tinh thần và bảo đảm tự do, dân chủ về mọi mặt, đó chính là cam kết chính trị của Việt Nam cùng các quốc gia và cộng đồng quốc tế thực hiện hiệu quả những giá trị phổ quát về nhân quyền đã được xác định trong “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người

Một số giải pháp góp phần tăng cường công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu chống phá, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng

 

Một số giải pháp góp phần tăng cường công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu chống phá, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng


Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị đang gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, nhất là trên không gian mạng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cấp ủy, tổ chức đảng, cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên…

Trước thềm đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch ở trong nước và ngoài nước ngày càng gia tăng các hoạt động quyết liệt và thâm hiểm nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Trọng tâm của sự chống phá là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng và công tác nhân sự đại hội đảng các cấp... nhằm hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.

Thủ đoạn chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch tập trung chủ yếu chống phá nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phê phán, đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, bóp méo sự thật về đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang...; lợi dụng vấn đề chống tham nhũng, nhất là sau một số vụ án tham nhũng kinh tế, các đối tượng thù địch thông qua các trang mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật về cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam; tuyên truyền những nội dung xấu, độc, trá hình, bới móc, thổi phồng, xuyên tạc những sai lầm, khuyết điểm hoặc lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong quản lý nhà nước để vu khống, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của các cấp ủy, chính quyền địa phương…. 
Trước tình hình trên, các cơ quan báo chí cách mạng của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tổ chức nhiều biện pháp đấu tranh ngăn chặn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, góp phần bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đấu tranh vẫn còn những hạn chế, chưa ngăn chặn được triệt để các thông tin xấu, độc, dẫn đến có những tác động tiêu cực tới nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và con đường phát triển đất nước.

Để nâng cao hiệu quả, góp phần tăng cường công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá, luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng, cần thực hiện tốt một vài giải pháp chủ yếu sau:

Một là, bổ sung, hoàn thiện nội dung, phương thức đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái trên không gian mạng trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, không gian mạng phát triển như “vũ bão”, thông qua “thế giới ảo”, các thế lực thù địch không đơn thuần sử dụng các phương pháp truyền thống mà các hình thức chống phá của chúng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, do vậy đòi hỏi nội dung, phương thức đấu tranh của chúng ta cũng phải từng bước hoàn thiện cho phù hợp. Nội dung, phương pháp giữ vai trò rất quan trọng trong đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái trên không gian mạng; nội dung đấu tranh phong phú, hình thức đa dạng, biện pháp cụ thể, sáng tạo, phù hợp thì hoạt động này mới có hiệu quả cao.

Hai là, thực hiện có hiệu quả các giải pháp công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài, xử lý nghiêm các vi phạm trên không gian mạng…

Bên cạnh những giá trị đích thực, thì những mặt trái, tiêu cực của không gian mạng cũng đặt ra yêu cầu và thách thức không nhỏ cho công tác quản lý. Một số quốc gia đã dựng lên các “biên giới ảo” trên nền Internet để kiểm soát “lãnh thổ” của mình. Với chúng ta, song hành cùng các giải pháp tăng cường đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, thì cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp công nghệ, như: bảo vệ tốt thông tin cá nhân; kỹ thuật phát tán thông tin trên không gian mạng; kỹ thuật phân tích điều tra, ngăn chặn, bóc gỡ, khóa tài khoản của đối phương... có vị trí vô cùng quan trọng, góp phần quyết định đến thắng lợi trong đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái trên không gian mạng hiện nay.

Ba là, giáo dục các quy định của pháp luật về quản lý không gian mạng. Phổ biến các điều khoản của Bộ luật Hình sự 2015 (Mục 2, Điều 285-294) liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15-7-2013 của Chính phủ và Thông tư số 09/2014/BTTTT ngày 19/8/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội, những hành vi bị nghiêm cấm trong sử dụng mạng xã hội. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật An ninh mạng năm 2018. Luật An ninh mạng được xây dựng nhằm bảo vệ người dùng hợp pháp trên không gian mạng; phòng ngừa, đấu tranh, làm thất bại hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, chống Nhà nước, tuyên truyền phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, kích động biểu tình, phá rối an ninh trên mạng của các thế lực phản động. Phòng ngừa, ngăn chặn, ứng phó, khắc phục hậu quả của các đợt tấn công mạng, khủng bố mạng và phòng, chống nguy cơ chiến tranh mạng. Tuyên truyền sâu rộng về những hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng, nhất là các hành vi sử dụng không gian mạng để tuyên truyền chống Nhà nước; tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; thông tin sai sự thật; hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội; phá hoại thuần phong, mỹ tục; xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi. Các hình thức giáo dục cần được vận dụng đa dạng, phong phú và linh hoạt như: phối hợp giữa cơ quan chức năng với các cơ quan, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục tổ chức nói chuyện chuyên đề, phổ biến pháp luật; tuyên tuyền Luật An ninh mạng; các cuộc thi tìm hiểu về an toàn thông tin; góp ý xây dựng chương trình giáo dục an toàn thông tin mạng của các cơ sở giáo dục hoặc tham gia biên soạn các tài liệu liên quan đến an toàn thông tin mạng.

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

Nhận diện và đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội hiện nay

 Nhận diện và đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội hiện nay

NHẬN DIỆN NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta, cụ thể là phủ nhận học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Bằng cách tuyên truyền các thuyết “quái thai”, “đẻ non của lịch sử”, “CNXH cáo chung”... các thế lực thù địch đã tìm mọi cách phê phán triệt để, bôi đen hiện thực để đi đến bác bỏ hoàn toàn CNXH. Xoay quanh các luận điệu: CNXH ra đời ở các nước lạc hậu không đúng theo kịch bản của Mác, rằng: sự thất bại và sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng tỏ rằng CNXH không có sức sống và nó chỉ được nặn ra từ đầu óc ngông cuồng của những người cộng sản. Bằng những lý lẽ xuyên tạc, bóp méo, ngụy biện chúng ra sức chứng minh CNXH là một hiện tượng không phù hợp với quy luật lịch sử. Từ đó chúng đi đến kết luận: “xã hội loài người chỉ ngừng lại ở CNTB” và “CNTB sẽ tồn tại vĩnh viễn như một điểm dừng của lịch sử ”.

Chúng sử dụng nhiều thủ đoạn, từ tinh vi thâm độc đến công khai trắng trợn nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Một số phản động khác thì tuyên truyền: chủ nghĩa Mác chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, nay đã lỗi thời và lạc hậu. Chủ nghĩa Mác- Lênin phù hợp một chừng mực nào đó với trình độ lực lượng sản xuất và văn hoá Nga, không phù hợp với thế kỷ này, với nước ta. Từ những lập luận đó chúng đi đến những kết luận xuyên tạc như: Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm phương tiện, du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin với thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm, rằng: đưa chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam là một sai lầm.

Phủ nhận CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng

Xoá bỏ chế độ XHCN là mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ). Thực hiện âm mưu này, trên lĩnh vực tư tưởng các thế lực phản động ra sức làm lung lạc ý chí của nhân dân ta với các luận điệu tuyên truyền: Việt Nam trước đây có sự giúp đỡ của các nước XHCN thì có thể bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, nay không còn sự giúp đỡ đó thì không thể đi lên CNXH được, hãy trở lại chế độ dân chủ nhân dân. Chúng xuyên tạc: đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của ta là chắp vá, không tưởng. Chúng rùm beng rằng: Việt Nam hiện nay đang đứng ở ngã ba đường không biết đi theo con đường nào; kêu gọi ta không nên cứ tôn thờ CNXH một cách lý thuyết suông mà hãy hoà nhập vào thời đại, đi theo con đường TBCN. Cuối cùng, chúng khẳng định: không có con đường đổi mới để có CNXH, mà chỉ có con đường từ bỏ CNXH để quay về với cái dòng chính tự nhiên của lịch sử là CNTB. Nếu chúng ta biết tự giác theo con đường đó thì đến đích nhanh hơn, nếu không thì tất yếu sẽ phải đi theo con đường đó nhưng đến đích đau đớn hơn...

   Công kích đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là định hướng XHCN

Những thế lực chống cộng tập trung công kích đường lối đổi mới của Đảng và nhân dân ta bằng nhiều luận điệu xuyên tạc trắng trợn. Chúng cho rằng: Những thắng lợi trong công cuộc đổi mới của nước ta chẳng qua vì những người cách mạng Việt Nam đã quá độ sang CNTB, đi theo CNTB. chúng phê phán đường lối phát triển của ta lấy kinh tế nhà nước là chủ đạo tức là tập trung vào khu vực kinh tế kém hiệu quả, khó tránh khỏi tụt hậu, yêu cầu ta phát triển thị trường tự do tư bản, khuyến khích tư nhân phát triển…

Lợi dụng kết quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng do Đảng ta tiến hành, chúng xuyên tạc, bóp méo, vu khống, suy diễn cho rằng đó là cuộc “thanh toán phe phái”, “trả thù cá nhân” giữa người này với người kia, nhóm này với nhóm khác vì “lợi ích nhóm”... Từ đó, nhằm gieo rắc những hoài nghi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chúng xuyên tạc các mối quan hệ cho rằng người này ủng hộ người kia, người này cùng ê kíp người kia, rồi tự phân chia phe phái. Từ những sự việc mà báo chí đã đưa tin, chúng đặt điều, vu khống, bóp méo, xuyên tạc nói rằng người này đang “dắt tay” người kia vào vị trí này, vị trí nọ; bình phẩm, phán xét rồi nhận định người này nghỉ thì người kia sẽ lên thay và cuộc chiến chống tham nhũng sẽ đi về đâu, “cán cân” quyền lực sẽ nghiêng về phe nào. Âm mưu của chúng là gây hoang mang, hoài nghi trong nhận thức tư tưởng trong Đảng và nhân dân về đường lối đổi mới và định hướng XHCN.

Xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu cán bộ, đảng viên của ta

Có thể khu biệt những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu cán bộ, đảng viên được kẻ xấu thể hiện ở một số kiểu dạng như: xuyên tạc, sai sự thật về tình hình sức khỏe; moi móc, thêu dệt bí mật đời tư; bình phẩm, phán xét về trình độ, năng lực; xuyên tạc nhân phẩm, đạo đức lối sống... Chẳng hề được chứng kiến sự kiện, mà chỉ là “bắc chõ nghe hơi”, nhưng chúng đã dựng nên những câu chuyện về các cuộc tiếp xúc ngoại giao, đón tiếp nguyên thủ các quốc gia sang thăm, các chuyến đi công tác nước ngoài... Điều này khiến cho dư luận hiểu sai về trình độ, khả năng ứng xử của cán bộ, hiểu sai về đường lối đối ngoại của Việt Nam ta.

Bên cạnh đó, chúng dùng chiêu “nắn dòng” đưa ra những thông tin bình phẩm về trình độ, năng lực của người này, người kia rồi đặt lên bàn cân so sánh. Khi cần “hạ bệ” cá nhân nào, chúng tập trung khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm ở những ngành, những lĩnh vực mà cá nhân đó phụ trách; rồi quy kết trách nhiệm theo kiểu “bới lông tìm vết”, “có ít xít ra nhiều”; thậm chí là trắng trợn dựng chuyện, bịa đặt, đổi trắng thay đen, bóp méo hòng thay đổi bản chất của các vụ việc liên quan đến một số cán bộ, nhất là những đồng chí nằm trong quy hoạch nhân sự trước mỗi kì Đại hội Đảng...

Tóm lại, các thế lực chống phá cách mạng nước ta đã ra sức bài bác CNXH trên tất cả các mặt, từ nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác- Lênin đến CNXH hiện thực. Phương pháp, thủ đoạn chủ yếu của chúng là dùng “thứ lý luận phản khoa học” để bác bỏ chủ thuyết và dùng sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu để bác bỏ về mặt thực tiễn của CNXH, còn những thành tựu của công cuộc đổi mới thì chúng xuyên tạc theo con đường TBCN. Chúng cố tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng trong nhân dân ta- bước đầu tiên để đi đến thủ tiêu CNXH.

Những luận điệu trên của các thế lực thù địch được xuất phát từ những mưu đồ đen tối, mang chủ định ác ý, thiên kiến… nên hoàn toàn xa rời sự thật lịch sử. Sự thật là ngày nay tuy CNXH ở Liên Xô và Đông Âu không còn tồn tại, song CNXH hiện thực trong hơn 100 năm qua đã đạt được những thành tựu có tầm thời đại và ý nghĩa lịch sử, đã khẳng định được sức sống của một hình thái kinh tế xã hội mới và là nhân tố cực kỳ quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Tình trạng khủng hoảng toàn diện và sâu sắc vừa diễn ra ở các nước XHCN hoàn toàn không bắt nguồn từ bản chất của CNXH, mà bắt nguồn từ những sai lầm trong công cuộc xây dựng CNXH tích tụ lại nhưng không được kịp thời sửa chữa, đặc biệt là do sai lầm trong cải tổ, cải cách và đã để cho kẻ thù của CNXH lợi dụng. Có những sai lầm mang tính chủ quan của bản thân những người lãnh đạo, nhưng có những sai lầm mang tính khách quan khó tránh khỏi của một quá trình mò mẫm, tìm tòi, khai phá con đường xây dựng một hình thái kinh tế- xã hội mới chưa hề có trong lịch sử.

Vì sao giới chống Cộng ảo tưởng rằng họ đại diện cho đa số người dân?

 

Vì sao giới chống Cộng ảo tưởng rằng họ đại diện cho đa số người dân?


Theo định nghĩa được chấp nhận rộng rãi của Cas Mudde  (2004), thì chủ nghĩa dân túy nhìn thế giới như một cuộc đấu tranh giữa hai phe: một bên là đa số dân chúng trong sạch nhưng yếu thế, còn bên kia là thiểu số tinh hoa mục nát, tham nhũng nhưng nắm đặc quyền đặc lợi. Nhưng dù mọi nhà dân túy trên thế giới đều truyền bá cái nhìn này, nó không nhất thiết phản ánh thực tế. J.W. Muller (2015) cho rằng các phong trào dân túy có thể định nghĩa “dân chúng” theo 3 cách: xem “dân chúng” như toàn bộ dân số của một nước, xem “dân chúng” như một dân tộc có chung văn hóa, hoặc phóng chiếu “dân chúng” từ hình ảnh của các nhóm yếu thế hoặc bị bỏ rơi. Trường hợp cuối cùng – đánh đồng các nhóm yếu thế trong xã hội với “nhân dân” – dường như khớp với cách tuyên truyền của các nhóm chống Cộng người Việt, một lực lượng đã bị nhiều bài viết xem là có bản chất dân túy.


Nếu thường xuyên theo dõi dư luận của giới chống Cộng, bạn sẽ thấy họ là một lực lượng ô hợp chủ yếu gồm 5 bộ phận: các hậu duệ của chế độ Việt Nam Cộng hòa, các Đảng viên ly khai, các thanh niên Tây học bức xúc, các thị dân chống Trung Quốc cực đoan, và các nông dân kiện tụng để đòi đất. Cả 5 nhóm người này đều là bộ phận yếu thế, bị loại trừ khỏi sinh hoạt chính trị chính thống, và không đại diện cho đa số trong xã hội Việt Nam. Dù báo chí chống Cộng vẫn lạm xưng là “báo chí lề dân”, và nhiều tổ chức chống Cộng vẫn tuyên bố rằng họ đại diện cho đa số dân chúng, ngày càng có nhiều bạn trẻ trong hàng ngũ của họ nhận ra tình thế thật của mình. Trong một bài viết trên Luật khoa Tạp chí hồi tháng 11/2020, bút danh Nam Quỳnh rút ra nhận định sau từ kết quả khảo sát của Dự án World Values Survey:

“Những tranh luận chính trị lùm xùm với hàng nghìn lượt like trao qua đổi lại trên mạng xã hội hàng ngày dễ làm chúng ta quên đi một thực tế: cộng đồng những người ủng hộ dân chủ đa nguyên tại Việt Nam vẫn chỉ là một thiểu số.”



Nhưng vì sao đa số giới chống Cộng vẫn ảo tưởng rằng mình đại diện cho đa số người dân trong xã hội, bất chấp những kết quả khảo sát như trên? Có thể tìm thấy ít nhất 2 lý do cho hiện tượng đó.

Thứ nhất, sinh hoạt của giới chống Cộng chủ yếu gói gọn trong 4 không gian – là (1) Cộng đồng người Việt hải ngoại; (2) truyền thông của “thế giới tự do”; (3) phong trào biểu tình chống Trung Quốc; và (4) Mạng xã hội. Tầm quan trọng của 4 không gian này thể hiện rõ qua 3 cột mốc đáng nhớ của giới chống Cộng – là năm 1975 (chiến tranh Việt Nam kết thúc / cộng đồng người Việt tị nạn ra đời), năm 2006 (Việt Nam sắp vào WTO / Khối 8406 được thành lập), và năm 2011 (Mùa xuân Arab / các cuộc biểu tình “chống Trung Quốc” làm phát sinh nhóm No-U). Do các biện pháp ngăn chặn của công an, và do thái độ cực đoan, cục bộ của các nhà chống Cộng, đa số giới chống Cộng cũng bị giới hạn tầm nhìn trong 4 không gian này. Vì chỉ tiếp xúc với những người có cùng quan điểm với mình, các nhà chống Cộng lầm tưởng rằng quan điểm đó đại diện cho đa số trong xã hội, trong khi sự thật hoàn toàn khác. Ảo tưởng này ngày càng trầm trọng hơn, vì trong 4 không gian vừa nêu, mạng xã hội là cầu nối giữa 3 không gian còn lại. Để thúc đẩy người dùng online nhiều hơn, các mạng xã hội như Facebook chỉ hiển thị cho người dùng thấy các thông tin chứa quan điểm chính trị mà họ tán thành; và tính năng này đã nhốt nhiều cộng đồng, bao gồm giới chống Cộng, trong các mối quan tâm nhỏ hẹp của họ.

Thứ hai, nhiều nhân vật dân túy trong giới chống Cộng liên tục tuyên truyền rằng phong trào của họ ngày càng lớn mạnh và sắp thắng, phần để giữ chân người ủng hộ và nhà tài trợ, phần để đạt lượng Like, View lớn hơn. Nhu cầu lôi kéo đám đông của các nhà dân túy chống Cộng đã góp phần khiến dư luận của họ bị ngập trong những “tin vui” sai sự thật – như thông tin rằng biểu tình chống Trung Quốc năm 2018 chuyển thành biểu tình chống chế độ, hoặc thông tin rằng dịch COVID-19 sắp khiến Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế, tạo “thời cơ” để họ lật đổ chế độ.

 

Thực hư các "tù nhân lương tâm" hay bị biệt giam, bị phân biệt đối xử?

 

Thực hư các "tù nhân lương tâm" hay bị biệt giam, bị phân biệt đối xử?


Mới đây, tổ chức Quan sát Nhân quyền quốc tế - HRW vu cáo Trại giam An Điềm “đàn áp” Nguyễn Bắc Truyển bằng liệt kê như  “thu giữ nhiều lá thư ông Truyển gửi về gia đình mà không giải thích lý do”, “hàng trăm lá thư của những người ủng hộ từ Na Uy gửi tới ông Nguyễn Bắc Truyển thông qua văn phòng Stefanus Alliance International (Liên minh Quốc tế Stefanus), một tổ chức Công giáo và nhân quyền ở Na Uy đã bị chặn giữ”, bị đâu khớp mà không được đi khám bệnh tổng quát (?), “bị biệt giam trong xà lim riêng, cách biệt với những tù nhân khác suốt vài tháng”.HRW viện dẫn  Điều 27 Luật Thi hành Án Hình sự năm 2019 quy định về quyền và nghĩa vụ của phạm nhân, trong đó đảm bảo cho họ, ngoài những quyền khác, “được chăm sóc y tế; gửi, nhận thư,… được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm,”… “được sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo” và “được bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo” để quy kết đó là “hình thức trả thù tùy tiện nhằm vào ông Truyển”



Tương tự, nhiều “tù nhân lương tâm” khác cũng thường tố lên các tố chức nhân quyền, chính khác nước ngoài la làng cho họ tương tự, đều nhằm đến lên án chính quyền không đối xử “bình đẳng” với số “tù nhân lương tâm”, rằng mượn việc đi tù để trả thù họ.

Trước đây, họ thường than thở về chế độ giam giữ, ăn uống, ngủ nghỉ…nay chính bản thân nội bộ các “tù nhân  lương tâm” thấy xấu hổ khi ca than việc này bởi chế độ ăn uống, ngủ nghỉ, lao động của họ được quy định rõ trong luật, được các trại giam tuân thủ nghiêm túc, khiến họ xấu hổ với chính đồng bọn và tự thẹn với chính thể diện của mình. Nay họ chuyển sang việc lên án bị biệt giam, không được giảm án, lên án việc bị giam chung với tù hình sự bình thường khác, lên án việc bị điều đi giam giữ xa nhà, không được đáp ứng tiêu chuẩn thuốc thang, chữa bệnh tương xứng với bệnh của mình hoặc không được thư từ cho gia đình hoặc nhận thư từ từ bên ngoài cho mình…. Kỳ thực có sự phân biệt đối xử này với họ không?

Quy tắc cải tạo, chấp hành án phạt tù là quá trình cải tạo, giáo dục để phạm nhân nhận ra hành vi phạm tội, ăn năn, hối cải, ý thức cải tạo tốt, là điều kiện xem xét giảm án phạt tù. Đã từng có tù nhân chống phá Nhà nước được giảm án, như Lê Chí Quang, Lê Công Định… do "ý thức" cải tạo tốt. Chẳng hạn Lê Công Định chấp hành án tốt, thành khẩn nhận tội .... Nên việc cho rằng, họ không có cơ hội giảm án, bị phân biệt đối xử là không đúng. Bản chất nằm ở chỗ họ ngang nhiên không thừa nhận hành vi phạm tội, thậm chí vẫn thách thức, tuyên bố chống đối đến cùng…thì chẳng có cơ sở nào để “ưu đãi” cho họ cả, đương nhiên bị biệt giam - hình thức kỷ luật đối với phạm nhân “ngang ngược” là phù hợp với quy định luật pháp. Dù ở Mỹ, Âu hay bất cứ đâu cũng như vậy, biệt giam dành cho tội phạm nguy hiểm (tội xâm phạm an ninh quốc gia trogn Bộ luật hình sự Việt Nam là tội đặc biệt nguy hiểm), tội phạm ngang ngược, không nhận ra sai phạm, chống lại quá trình cài tạo, giáo dục.

Còn việc họ ta thán không được gửi thư về nhà, không nhận thư tư nước ngoài là xâm phạm nhân quyền của họ! Có điều họ lờ tịt đi họ đã gửi thư gì về nhà, liệu có phải là vài “tâm thư” muốn qua người nhà để chuyển nội dung bôi nhọ, xuyên tạc, vu cáo chính quyền, trại giam như là “bằng chứng” để cầu cạnh nước ngoài can thiệp vào quá trình giáo dục, cải tạo… Loại “thư” này rõ ràng là “sản phẩm vi phạm pháp luật, tuyên truyền chống Nhà nước” thì trại giam nào chấp nhận cho họ cái “quyền” đó không?

Thêm nữa, họ lờ tịt đi loại thư nào từ nước ngoài gửi về họ không được nhận, nội dung trong đó là gì? Chỉ cần google trên mạng là thấy, mấy tổ chức phản động, khủng bố hay thù địch với Việt Nam ở nước ngoài thường có chiến dịch gửi thư cổ vũ, khen ngợi ca tụng cho các “tù nhân lương tâm” để họ “kiên định bản lĩnh chống Nhà nước” trong tù.. Xin hỏi, loại thư này có “tác dụng” gì tới quá trình cải tạo phạm nhân, liệu có nước nào chấp nhận cho phạm nhân được nhận thư cổ vũ anh đừng có cải tạo tốt, cứ phạm tội đi, cứ chống đối đến cùng đi vì có chúng tôi luôn ủng hộ anh, bla, bl

Vì sao Trần Huỳnh Duy Thức không được mãn hạn tù?

 

Vì sao Trần Huỳnh Duy Thức không được mãn hạn tù?


Mới đây, vào dịp Ngày Nhân quyền quốc tế, BBC đăng bài nêu ý kiến của các “nhà hoạt động” trong và ngoài nước về tình trang nhân quyền Việt Nam. Đáng chú ý, trong bài viết nặng về đấu tố, công kích, xuyên tạc tình hình dân chủ Việt Nam này, BBC đưa ý kiến của Luật sư Teresa Trần Kiều Ngọc, giám đốc và sáng lập viên Phong Trào Giới Trẻ Thế Giới Vì Nhân Quyền lên án việc “bắt bớ giam cầm tùy tiện nhà báo, nhà hoạt động Phạm Đoan Trang vào đầu tháng 10 năm nay và việc lẽ ra tù nhân chính trị, doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức phải được trả tự do sau 5 năm, theo Bộ luật hình sự mới năm 2015, nhưng anh vẫn tiếp tục bị giam cầm hơn 11 năm qua. Nói chung có luật nhưng sự áp dụng vẫn tùy tiện, vẫn rất chính trị."




Với nhận định trên đủ cho ta thấy, cô luật sư “thân hữu Việt Tân”, VOICE nói lấy được và thiếu khả năng đọc hiểu pháp luật Việt Nam.

Thứ nhất, Phạm Đoan Trang bị bắt, khởi tố theo hành vi tuyên truyền chống Nhà nước theo Điều 88 BLHS 1992 và Điều 331 BLHS 2015, nằm trên cơ sở rất nhiều cuốn sách, bài viết, trả lời phỏng vấn tuyên bố thẳng thừng hoạt động nhằm lật đổ chế độ hiện hành, là có cơ sở pháp luật rõ ràng, có phê chuẩn của cơ quan tố tụng và công khai tiến hành điều tra nhằm đưa ra xử lý tới đây. Hoàn toàn không phải là “bắt bớ giam cầm tùy tiện” như cô luật sư thân thiết, gắn bó với Đoan Trang từ lâu nói lấy được này.

Thứ hai, trường họp Trần Huỳnh Duy Thức bị kết án theo tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền với bản án 16 năm tù năm 2010, tính cả thời gian tạm giam, Thức phải chấp hành án đến năm 2030. Tuy nhiên, luật sư Trần Kiều Ngọc lại lập luận rằng, Trần Huỳnh Duy Thức “phải được trả tự do sau 5 năm, theo Bộ luật hình sự mới năm 2015, nhưng anh vẫn tiếp tục bị giam cầm hơn 11 năm qua. Nói chung có luật nhưng sự áp dụng vẫn tùy tiện, vẫn rất chính trị” thì chứng tỏ cô ta cố tình không đọc, hiểu luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam và nói lấy được.

Điều kiện được xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15 tháng 05 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao như sau:

“Điều 6. Điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

1. Phạm nhân có đủ các điều kiện sau đây thì được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:

a) Đã chấp hành được ít nhất một phần ba thời hạn đối với hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống hoặc mười hai năm đối với tù chung thân;

b) Có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, cụ thể như sau:

- Phạm nhân bị phạt tù chung thân phải có ít nhất bốn năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm thời hạn được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân phải có ít nhất năm năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

- Phạm nhân bị phạt tù trên hai mươi năm đến ba mươi năm phải có ít nhất ba năm sáu tháng liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

- Phạm nhân bị phạt tù trên mười lăm năm đến hai mươi năm phải có ít nhất ba năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

- Phạm nhân bị phạt tù trên mười năm đến mười lăm năm phải có ít nhất hai năm liên tục liền kề hoặc tám quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

- Phạm nhân bị phạt tù trên năm năm đến mười năm phải có ít nhất một năm hoặc bốn quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

- Phạm nhân bị phạt tù trên ba năm đến năm năm phải có ít nhất sáu tháng hoặc hai quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

- Phạm nhân bị phạt tù ba năm trở xuống phải có ít nhất một quý gần nhất được xếp loại từ khá trở lên.”

Quy định của pháp luật rất rõ điều kiện để được xét giảm án sau khi đã chấp hành ít nhất 1/3 thời hạn tù, tối thiểu phải có ít nhất 3 năm liên tục thời điểm liền kề thời điểm xét giảm xếp loại từ khá trở lên. Chiếu vào trường hợp Trần Huỳnh Duy Thức vẫn luôn luôn không thừa nhận phạm tội, hành vi vi phạm pháp luật, liên tục câu kết với gia đình thân nhân để tạo sóng truyền thông vu cáo chính quyền , trại giam không giảm án, thả tự do cho ông ta, gần như chỉ chăm chăm tìm cách, tìm cớ khiếu kiện, phản đối mọi hình thức giáo dục, cải tạo thì làm sao đạt loại khá trở lên trong cải tạo được.

Cải tạo kém như vậy, Trần Huỳnh Duy Thức làm gì có cơ hội giảm án, tha tù trước thời hạn như trường hợp Lê Công Định được? Mỗi lần xét giảm án, dù cải tạo tốt cũng chỉ được giảm với số lượng thời gian nhất định, không có chuyện cứ chấp hành 1/3 thời gian cải tạo là đương nhiên được “thả tự do”, không được thả tức là “có luật nhưng sự áp dụng vẫn tùy tiện, vẫn rất chính trị” như vu cáo, quy kết của cô luật sư Úc Trần Kiều Ngọc.

Qua đó có thể thấy, Việt tân nên xem lại trình độ luật sư của mình thiếu khả năng đọc hiểu nhưng thừa khả năng phát ngôn tùy tiện, lố bịch.

Thứ ba, nhận định hồ đồ, thiếu khả năng đọc hiểu luật của cô luật sư trên lại được BBC đăng nguyên vẹn, không với thẩm định, tìm hiểu hay đối chiếu, chứng tỏ BBC chỉ cần đăng, cần nghe, cần truyền tải những thông tin chống lại chính quyền, không cần biết nó vố lối, sai, giả dối, bịa đặt ra sao. Đây là cách làm báo của một cơ quan truyền thồng đẳng cấp quốc tế sao?