Thứ Hai, 25 tháng 10, 2021

Chuyên gia nước ngoài: Việt Nam dẫn đầu khu vực trong việc kiềm chế coronavirus lây lan!

 

Chuyên gia nước ngoài: Việt Nam dẫn đầu khu vực trong việc kiềm chế coronavirus lây lan!

Trái ngược với sự công kích, phủ nhận thành quả công tác chống dịch bệnh của Việt Nam của các trang thông tin phản động, cực đoan, thiếu thiện chí với Việt Nam, nhất là trước đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ 4 mới đây tại các tỉnh phía Nam, các chuyên gia nổi tiếng thế giới đến từ Mỹ và Úc nhận định rằng, Việt Nam đã linh hoạt áp dụng các biện pháp hiệu quả để khống chế sự lây lan của COVID-19 và có những đóng góp to lớn cho ASEAN.

Năm 2020 và đầu năm 2021, Việt Nam đã khống chế được COVID-19 thông qua việc kết hợp giữa đóng cửa biên giới và thực thi giãn cách xã hội. Gần đây, Việt Nam bỏ chiến lược “không có COVID” để theo đuổi một cách tiếp cận linh hoạt hơn, như chung sống an toàn với virus, vừa phòng chống dịch vừa phát triển kinh tế thông qua tiêm vắc xin cho tất cả người dân, cho người lớn, bao gồm công nhân, trước, rồi trẻ em sau (dự kiến vào cuối tháng 10/2021), áp dụng mô hình “3 tại chỗ” trước, rồi cho phép người lao động tự do di chuyển sau…


Trước tiên phải nhắc tới, GS Carlyle A. Thayer, Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Úc, nhận định: 

“Việt Nam trải qua bốn đợt đại dịch COVID-19 từ đầu năm 2020 tới nay. Việt Nam đã hành động nhanh chóng và dứt khoát khi đợt dịch đầu tiên bùng phát bằng cách áp dụng tập quán toàn cầu tốt nhất về sức khỏe cộng đồng. Đó là đóng cửa biên giới, xét nghiệm, truy vết tiếp xúc, cách ly, đóng cửa trường học, cấm tụ tập đông người, yêu cầu đeo khẩu trang, thực hiện giãn cách xã hội… Những biện pháp ban đầu này rất hiệu quả. Các đợt dịch tiếp theo đòi hỏi các biện pháp nghiêm ngặt như phong tỏa, hạn chế đi lại”, 

Một vấn đề mà Việt Nam phải đương đầu trong suốt giai đoạn này là kiếm được đủ lượng vắc xin để tiêm cho những thành viên dễ bị tổn thương trong xã hội cũng như cho người lao động trong các ngành nghề thiết yếu, ông Thayer nói thêm.

Biến chủng Delta xuất hiện tạo ra một tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng vì có tốc độ lây lan nhanh, gây ra tỷ lệ tử vong cao. “Các nhà lãnh đạo Việt Nam nhanh chóng nhận ra rằng, chính sách “Zero COVID” không khả thi. Để đối phó, các nhà lãnh đạo Việt Nam áp dụng chính sách hai hướng chủ động. Đó là kiếm đủ vắc xin để tiêm cho người dân để có thể trở lại cuộc sống bình thường và khôi phục các hoạt động kinh tế”, GS Thayer nói.

Theo vị chuyên gia Úc, về hướng thứ nhất, Việt Nam đã thực hiện chiến dịch ngoại giao COVID rất thành công, thu về lượng vắc xin cần thiết. Hiện nay, Việt Nam đang tiếp nhận, làm chủ công nghệ và nâng cao năng lực để tự sản xuất vắc xin phòng COVID-19.

Về hướng thứ hai, Việt Nam đã gia tăng nỗ lực tiêm chủng với trọng tâm là TPHCM và các tỉnh phía Nam. Đông đảo người dân đã được tiêm vắc xin và các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt đã được dỡ bỏ, ông Thayer nói.

Trong khi đó, ông James Borton, nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Chính sách đối ngoại, Đại học Johns Hopkins (Mỹ), nhận định rõ ràng rằng, các làn sóng coronavirus ở TPHCM đã gây nhiều thách thức cho chính phủ Việt Nam. Hệ quả của chiến lược “Zero COVID” và các biện pháp nghiêm ngặt đã ảnh hưởng tới nền kinh tế, làm tê liệt ngành du lịch. Vì vậy, Việt Nam đã chuyển sang chính sách sống chung an toàn với virus thông qua một loạt đợt tái mở cửa chia theo từng giai đoạn.

“Rõ ràng rằng khi COVID-19 bùng phát lần đầu, Việt Nam chứng tỏ mình là nhà lãnh đạo khu vực, nếu không muốn nói là nhà lãnh đạo toàn cầu, trong việc kiềm chế sự lây lan của coronavirus. Năm 2020, trong vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã củng cố vai trò lãnh đạo của mình trong cuộc chiến khu vực chống lại đại dịch”, ông Borton nhận định.

Nhưng năm 2021, chủng Delta bùng phát, tràn qua Việt Nam và các nước khác. Tuy vậy, thế giới lại thấy các nỗ lực của Việt Nam trong việc đối phó cơn bão sức khỏe cộng đồng. Đó là tổ chức các hội nghị trực tuyến, tụ hội ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc). “Những hoạt động này được công nhân là những bước đi quan trọng. Ngoài ra, phải ghi nhận công lao của Việt Nam trong việc áp dụng các biện pháp đối phó tác động đối với những người yếu thế, bao gồm phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi”, học giả người Mỹ nói.

Phải chăng, toàn những vị học giả trên có "thiên vị" khi đánh giá về công tác phòng chống dịch bệnh của Việt Nam?

Không có nhận xét nào: