“Tình nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”
Mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào là mối quan hệ thủy chung, trong sáng, có một không hai trong lịch sử thế giới đương đại giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp, là tài sản vô giá của hai dân tộc, cần truyền mãi cho các thế hệ mai sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản.
Là hai nước láng giềng, cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, có nhiều nét tương đồng về lịch sử và văn hóa, Việt Nam - Lào đã luôn đoàn kết sát cánh bên nhau cùng chống kẻ thù chung, xây dựng nên mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc. Mối quan hệ đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện thật xúc tích bằng những vần thơ: “Việt - Lào, hai nước chúng ta. Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long” và được Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản khẳng định: “Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng đã có những tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài, toàn diện như vậy”.
Thực tiễn đã chứng minh, chỉ hai ngày sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 4/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đang ở Vinh ra Hà Nội. Cuộc gặp gỡ giữa hai vị lãnh tụ của hai nước đã đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng mối quan hệ hữu nghị Việt - Lào. Suốt 30 năm chiến tranh giải phóng của cả hai dân tộc (1945 - 1975) là một cuộc trường chinh đầy khó khăn, gian khổ, song cũng rất đỗi hào hùng, xây đắp nên tình đoàn kết chiến đấu, hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào. Với tư tưởng chỉ đạo chiến lược “Đông Dương là một chiến trường”, hai nước đã cùng nhau giải quyết thành công từng bước những vấn đề mấu chốt như: thống nhất chủ trương thành lập đảng mác-xít ở mỗi nước Đông Dương, thành lập khối liên minh Việt - Miên - Lào dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của nhau; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với nhau trong mọi chủ trương, hành động chiến lược quân sự, quốc phòng, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù chung là thực dân và đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự do cho mỗi nước.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp nhân dân nước bạn, tức là mình tự giúp mình”, coi nhân dân bạn như nhân dân mình, coi sự nghiệp cách mạng của bạn là trách nhiệm của mình, trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào đã luôn kề vai, sát cánh và cùng với bạn, vừa chiến đấu chống địch càn quét, lấn chiếm; vừa tiến hành xây dựng và củng cố các đoàn thể, chính quyền kháng chiến, xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng, tăng cường lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh du kích trên khắp các khu vực Thượng, Trung và Hạ Lào. Thông qua thực tiễn chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào cũng là cơ hội để bồi dưỡng, rèn luyện về mặt quân sự, chính trị, nhất là nâng cao thêm tinh thần đoàn kết quốc tế cho cán bộ, chiến sỹ Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam. Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của lực lượng kháng chiến Lào là nhân tố cơ bản, tạo điều kiện phối hợp có hiệu quả với chiến trường Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), nhất là trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước (1954 - 1975), quân và dân hai nước Việt Nam - Lào đã phối hợp mở nhiều chiến dịch tiến công lớn trên chiến trường Lào giành thắng lợi, buộc kẻ thù phải phân tán lực lượng đối phó, góp phần hỗ trợ đắc lực, tạo điều kiện thuận lợi cho các bước chuyển biến của chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Thủ tướng Chính phủ nước CHDCND Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản và Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam Phạm Văn Đồng ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa hai nước tại Viêng-chăn, ngày 18/7/1977.
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ hòa bình, cùng chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thức sâu sắc về ý nghĩa và tầm quan trọng của quan hệ đặc biệt Việt - Lào, hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam - Lào (5/2/1976), ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa CHXHCN Việt Nam và CHDCND Lào (18/7/1977), Hiệp ước Hợp tác quân sự giữa CHXHCN Việt Nam và CHDCND Lào (22/7/1977) và Hiệp ước Phòng thủ chung giữa hai nước (22/9/1977); khẳng định tình đoàn kết đặc biệt trước sau như một và sự hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Đây là những văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước phát triển mới toàn diện của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Từ đây, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào liên tục có những bước phát triển, nâng lên tầm cao mới, ngày càng đi vào chiều sâu và mang lại hiệu quả thiết thực, to lớn cho cả hai nước.
Việc trao đổi đoàn cấp cao giữa hai Đảng, hai Nhà nước được tiến hành thường xuyên, tạo điều kiện để hai bên trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trong công tác lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Sự hợp tác, giao lưu hữu nghị giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và các địa phương, nhất là các địa phương có chung biên giới và giữa nhân dân, đặc biệt là giữa thanh, thiếu niên hai nước được chủ động tăng cường, với nhiều hình thức đa dạng, nội dung phong phú đã mang lại hiệu quả thiết thực, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác nhiều mặt, làm cho quan hệ hai bên càng thêm gắn bó. Hai bên đã phối hợp nghiên cứu, tổ chức biên soạn và đang phổ biến rộng rãi công trình “Lịch sử quan hệ đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)” nhằm góp phần thiết thực làm cho cán bộ, nhân dân hai nước, nhất là thế hệ trẻ thấu hiểu được ý nghĩa chiến lược và tầm quan trọng đặc biệt của mối quan hệ Việt Nam - Lào và trách nhiệm của mình đối với việc góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt đó.
Lễ ký Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật năm 2013 giữa CHXHCN Việt Nam và CHDCND Lào.
Trong những năm qua, việc tăng cường, thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực kinh tế cho ngang tầm với quan hệ chính trị và tiềm năng của hai nước rất được chú trọng. Nội dung, hình thức hợp tác ngày càng được mở rộng, đa dạng và phong phú. Các dự án đầu tư của Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực mà Lào có tiềm năng, thế mạnh, được Chính phủ Lào khuyến khích như nông lâm nghiệp, thủy điện, khai khoáng, giao thông vận tải, dịch vụ, viễn thông... Các dự án đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam được thực hiện ở Lào đã góp phần làm thay đổi cơ cấu và thúc đẩy nền kinh tế Lào phát triển, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người dân, được Chính phủ Lào, chính quyền và nhân dân địa phương đánh giá cao. Hai nước đã ký nhiều thỏa thuận, ban hành các chính sách, cơ chế có tính ưu tiên, ưu đãi cao làm cơ sở pháp lý và tạo thuận lợi cho việc tăng cường trao đổi hàng hóa. Kim ngạch thương mại hai chiều trong những năm qua tăng liên tục, năm 2011 đạt 734 triệu USD, năm 2012 đạt 1 tỷ USD... Việt Nam đã vươn lên trở thành bạn hàng lớn thứ ba của Lào về thương mại. Phấn đấu năm 2015, kim ngạch thương mại hai nước đạt 2 tỉ USD.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, hai nước đã ký kết và triển khai “Đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác Việt - Lào trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2020”. Mỗi năm, Việt Nam dành cho Lào từ 600 - 700 suất đào tạo ngắn hạn và dài hạn. Hiện có hơn 5.000 lưu học sinh Lào đang theo học tại các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam và gần 500 lưu học sinh Việt Nam đang học tại các trường đại học tại Lào. Nhiều cơ sở đào tạo nguồn nhân lực do Việt Nam giúp xây dựng trên đất nước Lào đã và đang phát huy tốt tác dụng.
Hợp tác giữa Việt Nam và Lào trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh luôn được tăng cường chặt chẽ và hiệu quả trên các lĩnh vực: chia sẻ thông tin, huấn luyện, đào tạo, quân y... Hai bên đã duy trì việc ký Hiệp định Hợp tác quốc phòng hàng năm và 5 năm, phối hợp bảo đảm vững chắc ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội ở mỗi quốc gia, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Tình hình biên giới Việt Nam - Lào cơ bản ổn định, an ninh trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới được giữ vững, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Hiện dự án tôn tạo, tăng dày hệ thống mốc giới quốc gia được triển khai theo đúng kế hoạch. Một số cửa khẩu đã được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế, nhằm tạo thuận lợi cho việc giao thương, góp phần thực hiện chủ trương tăng cường liên kết kinh tế vùng miền giữa hai nước. Việc tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sỹ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hy sinh trong thời kỳ chiến tranh trên đất Lào được hai bên quan tâm và tích cực phối hợp. Đến nay, hai bên tìm kiếm và đưa về Việt Nam được hơn 12.000 hài cốt liệt sỹ...
Lễ khánh thành mốc Quốc giới - mốc đại 635 trên biên giới Quảng Trị (Việt Nam) và Sa-van-na-khẹt (Lào).
Sự phối hợp và hợp tác trong lĩnh vực đối ngoại giữa hai nước liên tục được tăng cường và đạt hiệu quả cao. Trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong các hoạt động song phương, đa phương; tham khảo ý kiến, phối hợp với nhau trong các vấn đề liên quan tới ASEAN, ASEM, Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết cũng như các diễn đàn quốc tế khác được tiến hành thường xuyên. Hai bên chú trọng trao đổi kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, khu vực và kinh nghiệm tham gia các chương trình hợp tác đa phương; phối hợp giữa ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia trong triển khai Tam giác phát triển; trao đổi thông tin, tham khảo ý kiến trong việc thực hiện các dự án hành lang Đông - Tây, hợp tác tiểu vùng sông Mê Công... Quan hệ hợp tác giữa các tỉnh, thành của hai nước không ngừng được phát triển, mở rộng và mang lại hiệu quả thiết thực. Các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng; một số tỉnh có tiềm lực kinh tế mạnh như: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã có quan hệ hợp tác với nhiều địa phương của Lào. Nhiều chương trình hợp tác kinh tế, thương mại, văn hóa được triển khai; nhiều công trình phúc lợi công cộng do các địa phương Việt Nam giúp các địa phương Lào được hoàn thành nhanh, đi vào hoạt động rất hiệu quả, đang trở thành một kênh hợp tác có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân và lan tỏa rộng khắp trên phạm vi cả hai nước.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, vừa thuận lợi, vừa đan xen những khó khăn, thách thức, hơn bao giờ hết chúng ta cần tiếp tục củng cố, tăng cường và phát triển hơn nữa mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam và Lào, coi đây là lẽ sống, là nghĩa tình trước sau như một, dù gian nan nguy hiểm đến đâu cũng không hề lay chuyển. “Chúng ta nguyện giữ gìn và bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào như giữ gìn và bảo vệ con ngươi của mắt mình; quyết tâm cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào anh em phát triển, làm phong phú, sâu sắc thêm và thúc đẩy mạnh mẽ, ngày càng đi vào chiều sâu, coi đây là tài sản thiêng liêng vô giá, cần trao truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Chúng ta cùng khẳng định quyết tâm phấn đấu kế thừa và vun đắp tình đoàn kết đặc biệt, quan hệ hữu nghị thủy chung gắn bó và sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt - Lào “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững” như ý nguyện của Chủ tịch Cay-xỏn Phôm- vi-hản “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam và Lào, cũng như vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
@CLT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét