Mương nước nhỏ, sứ mệnh lớn

Cửa khẩu Chiềng Khương những ngày tháng 8 không tấp nập khiến không gian dường như rộng hơn. Lá cờ Tổ quốc hai nước bay phấp phới trên nền trời xanh thăm thẳm mang lại những cảm xúc khó diễn tả. Và, câu chuyện về mương nước tưới tiêu mang đậm tình hữu nghị ở miền biên viễn xa xôi khiến người nghe sao thật gần gũi.

Trưởng bản Chiềng Khương (huyện Sông Mã), ông Quàng Văn Giới là người sinh ra và lớn lên ở Chiềng Khương, bởi vậy, hơn ai hết ông hiểu rõ về mương nước Hữu Nghị vì ngay từ nhỏ đã được các già làng trong bản kể cho nghe. Năm 1967, chính quyền huyện Sông Mã huy động công nhân, nhân dân đi đào mương dẫn nước tưới tiêu cho các bản Pục, Chiềng Khương và 5 bản giáp biên của huyện Mường Ét là bản Đán, Huổi Củ, Hát Củ, Vỉa và Sổn Khua. Trên công trường, mọi người vừa hăng say lao động vừa vượt qua những ngày máy bay Mỹ leo thang, bắn phá miền Bắc.

Viết tiếp khúc ca tình hữu nghị Việt-Lào

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng cửa khẩu Chiềng Khương và nhân dân các bản Pục, Chiềng Khương và 5 bản Lào là Đán, Huổi Củ, Hát Củ, Vỉa, Sổn Khua nạo vét mương nước Hữu Nghị. 

Năm 1988, chính quyền huyện Sông Mã tiến hành nâng cấp, xây gia cố mương nên hàng năm người dân chỉ phải đi nạo nét bùn, phát quang cây cỏ. “Thực ra, con mương dài 9km dẫn nước từ bản Mo qua bản Chiềng Khương (huyện Sông Mã) không hề có tên nhưng có lẽ vì mang “sứ mệnh” tưới tiêu cho các bản giáp biên của huyện Mường Ét nên người dân gọi bằng cái tên mương nước Hữu Nghị”- Trưởng bản Quàng Văn Giới chia sẻ.

Mương nước Hữu Nghị chỉ là kênh dẫn nước rộng chưa đầy 1m, tuy nhiên trong thực tế đã đem lại hiệu quả vô cùng lớn. Nhờ có dòng nước này mà người dân 2 bên biên giới nơi đây từ trồng 1 vụ lên 2 vụ mỗi năm mà còn giúp người dân phấn khởi, tin tưởng để khai hoang mở rộng diện tích. Đến nay, các bản Lào đã có 53ha, còn bản Pục, bản Chiềng Khương (huyện Sông Mã) có 14ha. Đời sống của nhân dân bởi thế ngày càng ấm no nhưng hơn cả là tình đoàn kết giữa nhân dân các bản 2 bên biên giới ngày càng khăng khít, gắn bó. Những ngày mùa trên cánh đồng rộn rã tiếng cười nói, người dân 2 bên biên giới đổi công giúp nhau cày bừa, gieo mạ, gặt lúa. Cây lúa cứ thế lớn lên với bao hy vọng vào ngày cho bông vàng trĩu hạt, bát cơm dẻo thơm hơn vì được kết tinh từ dòng nước đậm tình hữu nghị Việt Nam- Lào.

Đối với người dân 2 bên biên giới xã Chiềng Khương và huyện Mường Ét thì người Việt Nam, người Lào là anh em không chỉ trên phương diện ngoại giao 2 nước mà trong thực tế đó còn là mối quan hệ thân tộc. Tình đoàn kết hữu nghị nơi đây được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, thông qua sự giúp đỡ của Đồn Biên phòng cửa khẩu Chiềng Khương, chính quyền địa phương và sự đùm bọc giữa những người dân hai bên biên giới.

Suốt gần 3 năm dịch Covid-19 bùng phát, Chính phủ Lào tạm dừng xuất, nhập cảnh phổ thông để thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch. Điều này gây khó khăn vô cùng lớn với nhân dân các bản giáp biên của Lào bởi vốn từ trước đến giờ, việc khám chữa bệnh, mua hàng hóa, nhu yếu phẩm hầu hết đều diễn ra ở xã Chiềng Khương hoặc thị trấn Sông Mã. Trước khó khăn ấy, không ít lần, chính quyền huyện Sông Mã, Đồn Biên phòng cửa khẩu Chiềng Khương đã hỗ trợ lương thực, thực phẩm cho người dân các bản giáp biên của huyện Mường Ét. Người dân các bản Pục, Chiềng Khiêng cũng chuẩn bị sẵn những gùi đan đựng mắm muối, cá khô đặt sát đường biên giới để nhưng người anh em ở Lào có thể tới lấy mang về, phần nào giúp vượt qua những ngày khó khăn vì dịch bệnh.

Khúc ca của tình đoàn kết

Những ngày này, đồng bào Thái, Lào ở các bản Pục, Chiềng Khương, Đán Huổi Củ, Hát Củ, Vỉa, Sổn Khua bắt đầu mở nước vào ruộng để cày bừa bắt đầu cho mùa vụ mới. Để nước về đủ, mọi người sẽ phải đi khơi thông con mương Hữu Nghị. Không phải nhắc nhở, mỗi gia đình đều cử người tham gia vì ai cũng xác định đây là việc chung nhưng cũng là việc riêng của mình.

Viết tiếp khúc ca tình hữu nghị Việt-Lào
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng cửa khẩu Chiềng Khương giúp người dân bản Đán be bờ chuẩn bị cho mùa vụ mới. 

Lần nào cũng thế, Đồn Biên phòng cửa khẩu Chiềng Khương đều cử lực lượng tham gia hỗ trợ cho bà con. Việc vất vả nhưng ai cũng mang tâm trạng rất phấn khởi vì biên cương Chiềng Khương vắng lặng nay lại rộn rã tiếng cười nói bởi những câu chuyện cuộc sống sau bao ngày tháng bị gián đoạn bởi dịch Covid-19. Dòng nước cứ thế chảy về những thửa ruộng đã cày ải, sau một tuần có thể cho máy xuống bừa và rồi mạ non sẽ phủ xanh khắp cánh đồng.

Binh nhất Lò Văn Long (chiến sĩ đội Vận động quần chúng, Đồn Biên phòng cửa khẩu Chiềng Khương) lần đầu tham gia nạo vét mương nước Hữu Nghị. Tuổi trẻ nên xông xáo, anh không ngại ngần lội xuống những đoạn nước ngập ngang bụng để xúc những tảng bùn đưa lên bờ để nước chảy nhanh, nhiều hơn. Niềm vui của chàng lính trẻ đó là có thể trò chuyện cùng Bạn Lào mà không bị rào cản ngôn ngữ vì tiếng nói người Lào và người Thái của Việt Nam cơ bản giống nhau nên “vừa nghe vừa đoán cũng có thể hiểu được”.

Thượng úy, y sĩ Lò Văn Thương cũng luôn coi bà con các bản giáp biên Lào cũng như đồng bào của mình. Thượng úy Lò Văn Thương sinh ra và lớn lên ở bản Chiềng Khương nên từ nhỏ đã được nghe kể về mương nước Hữu Nghị. Khi chưa nhập ngũ, anh cũng đã nhiều lần tham gia đi nạo vét mương giúp Bạn Lào, thế nhưng mỗi lần gặp gỡ, đi giúp Bạn vẫn mang lại những cảm xúc khó tả. Đó là khi người già, người bệnh cầm tay anh thật chặt để cảm ơn đã khám, phát thuốc điều trị miễn phí, hay khi thấy cánh đồng bằng phẳng từ đồng khô cỏ cháy, xanh mướt mạ non đến vàng trĩu hạt.

Đứng nhìn dòng nước chảy về ruộng, ông Bông Súc, Bí thư chi bộ bản Đán phấn khởi cho biết. “Tình hữu nghị Việt-Lào nơi đây không chỉ là con mương dẫn nước từ Việt Nam sang tưới tiêu cho những cánh đồng lúa ở Lào. Những ngày phòng, chống dịch nếu không có cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng cửa khẩu Chiềng Khương và nhân dân bản Chiềng Khương thì các bản bên này không có nước để trồng lúa. Chúng tôi biết rằng, thời kỳ chiến tranh, lúc làm mương nước, giặc Mỹ bắn phá leo thang ra miền Bắc thế nên đã có 3 công nhân hy sinh vì trúng bom. Ân tình sâu nặng này chúng tôi luôn ghi nhớ, nhắc nhở nhau vì thế mà càng phải gìn giữ, vun đắp tình hữu nghị Việt Nam-Lào để mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”.

Mùa vụ mới đã bắt đầu cùng với bao hy vọng cây lúa sẽ trổ đòng, kết nên những bông lúa trĩu nặng nghĩa tình đoàn kết.