SAU NGÀN NĂM BẮC THUỘC, TẠI SAO VIỆT NAM KHÔNG BỊ SÁP NHẬP VÀO TRUNG QUỐC?
Vì sao sau 1000 năm Bắc thuộc, Việt Nam vẫn là Việt Nam, Việt Nam không trở thành một phần của Trung Quốc, không trở thành một tỉnh của Trung Quốc, không trở thành một quận của Trung Quốc như mưu đồ của người phương Bắc? Đừng nói đến một nghìn năm, chỉ vài trăm năm thôi, trên thế giới đã có những dân tộc bị xóa sổ, chỉ vài trăm năm thôi, trên thế giới đã có những dân tộc bị đồng hóa, chỉ vài trăm năm thôi có những dân tộc đã trở thành một phần của dân tộc đến xâm lược mình. Vậy mà không phải là vài trăm năm, sau cả một nghìn năm, ông cha ta vẫn giữ được tiếng nói, vẫn giữ được chủ quyền, vẫn giữ được quyền lãnh thổ của Việt Nam. Đấy là một câu hỏi chắc chắn chúng ta cần suy nghĩ.
Lý do đầu tiên: Chúng ta là tộc Việt ở xa Trung Nguyên nhất.
Xưa kia, người Lạc Việt, tức là tổ tiên của chúng ta hôm nay là tộc người ở xa nhất trong số những tộc người Bách Việt đặt trong mối quan hệ với triều đình Hoa Hạ ở Trung Nguyên.
Tất cả chúng ta đều biết rằng: Thuở xa xưa, sau khi thống nhất Trung Nguyên, thì Tần Thủy Hoàng đã cho một viên tướng của mình là Đồ Thư đem theo hàng chục vạn quân để xâm phạm lãnh thổ của người Bách Việt. Và Đồ Thư đã nhanh chóng chiến thắng những người tộc Việt ở gần sông Dương Tử như Đông Việt, Nam Việt, Mân Việt… Chỉ sau một thời gian, tất cả những tộc Việt đó đã bị Hán hóa, bây giờ trở thành những vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Chiết Giang của người Trung Quốc. Nhưng khi Đồ Thư tiến quân vào Âu Việt và Lạc Việt, tức là phần lãnh thổ toàn bộ miền Bắc Việt Nam ngày hôm nay, Đồ Thư phải đối diện với một vùng khí hậu vô cùng khắc nghiệt, một vùng thổ nhưỡng vô cùng xa lạ với đoàn quân phương Bắc. Sau 10 năm chinh chiến ở đây, Đồ Thư đã bị đánh bại, người Âu Việt, Lạc Việt tiếp tục giữ được lãnh thổ, lãnh địa của mình.
Sau này, khi mà người Hán sang, biến toàn bộ miền Bắc của chúng ta bây giờ trở thành một phần của người Hán. Họ đã chia lãnh thổ Việt Nam ra thành ba quận: quận Giao Chỉ - miền Bắc Việt Nam bây giờ, quận Cửu Chân - Thanh Hóa, Nghệ An bây giờ, và đặc biệt là quận Nhật Nam - Quảng Bình đến Bình Định bây giờ. Thì quận Nhật Nam tức là vùng xa nhất cuối cùng cũng đã vùng lên, thành lập một quốc gia riêng độc lập với người Hán gọi là quốc gia Lâm Ấp, hay sau này chúng ta gọi là Chăm Pa.
Từ đó, chúng ta thấy rằng việc ở xa nhất trong số những tộc người Bách Việt là một lợi thế cho người Âu Việt và Lạc Việt và nhờ lợi thế đó mà người Âu Việt, Lạc Việt có thể giữ được chủ quyền lãnh thổ của mình.
Lý do thứ hai: Luôn giữ được độc lập tương đối sau… lũy tre làng.
Trong cả hơn 1000 năm Bắc thuộc thì những thái thú người Trung Quốc sang đây chỉ có thể cai quản một quận, huyện ở trung ương. Chứ họ và những chính sách của các triều đình phong khiến Trung Quốc không thể lan tỏa được tới gốc rễ của làng xã Việt Nam. Điều này là vô cùng quan trọng.
Ở một thời điểm nào đó chúng ta có thể bị mất nước nhưng chúng ta không bao giờ bị mất làng. Ở trong làng của mình, sau lũy tre xanh, những người Việt từng thế hệ vẫn lan truyền cho nhau dòng văn hóa Việt, vẫn cùng nhau bảo tồn những di sản Việt. Việc những thái thú người Trung Quốc không thể đặt ách cai trị, không thể đặt những sự áp bức kiệt cùng của mình lên từng làng xã Việt Nam, không thể phá hủy đầu tiên là những tục lệ của làng xã, sau đó là những hương ước của làng xã. Khiến cho họ không thể tạo nên một áp lực cai trị toàn diện về cội rễ. Làng còn thì nước còn. Làng còn thì Tổ quốc còn. Người Việt đã giữ đất nước của mình bằng cách giữ làng. Và cái làng ấy độc lập rất nhiều so với những chính sách cai trị của Trung Quốc. Như chúng ta có câu “Phép vua thua lệ làng”.
Lý do thứ 3: Chính sách “ngoại Vương - nội Đế” vô cùng mềm dẻo.
Trong lịch sử, tổ tiên chúng ta đã giữ nước một cách cực kỳ khéo léo và khôn ngoan. Chúng ta hiểu rằng người phương Bắc luôn tràn đầy dã tâm. Chúng ta hiểu rằng họ luôn mang một mưu đồ thống trị. Họ coi người Việt Nam chúng ta là “man di”, “cần phải khai hóa”. Cho nên tổ tiên chúng ta luôn chọn một cách ứng xử, một cách tồn tại cực kỳ khéo léo.
Ở những thuở đầu tiên trung hưng của đất nước, những thủ lĩnh của người Việt như: Khúc Thừa Dụ sau khi đánh đuổi được giặc phương Bắc, đã thực sự hoàn toàn làm chủ lãnh thổ của mình thì ông cũng chỉ xưng là Tiết độ sứ. Sau này, khi những triều đình phong kiến Việt Nam xưng đế, chúng ta vẫn duy trì chính sách là “ngoại Vương – nội Đế”. Chúng ta là Hoàng Đế của đất nước chúng ta, một đất nước Đại Việt được hình thành bởi Đinh, Lê, Lý, Trần. Nhưng ở bên ngoài chúng ta vẫn xưng Vương với người phương Bắc, chúng ta vẫn triều cống với người phương Bắc. Đấy là một cách tồn tại, đấy là một cách ứng xử vô cùng khéo léo để chúng ta thực sự giữ được quyền độc lập tự chủ của mình trước một đối phương đầy dã tâm.
Nói đến chính sách “ngoại Vương - nội Đế”, chúng ta cũng phải nhắc lại rằng, trước khi đánh quân Thanh, thì Hoàng đế Quang Trung cũng đã phải tính trước rằng sau khi đánh quân Thanh rồi, ta sẽ phải ngoại giao với nhà Thanh như thế nào? Và chúng ta cũng biết rằng sau khi đánh tan quân Thanh, Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục chính sách ngoại giao triều cống nhà Thanh. Trước một kẻ thù hùng mạnh và đầy dã tâm nếu chúng ta cứng quá thì chúng ta rất khó tồn tại. Phải nói rằng ông cha chúng ta đã có một cách thức tồn tại vô cùng khôn ngoan, hiệu quả.
Lý do thứ 4: Châu thổ sông Hồng tạo nên một sự tích lũy quý báu về tài lực và vật lực.
Địa bàn của chúng ta gắn liền với con sông Hồng. Châu thổ sông Hồng tạo ra một sự tích lũy về lương thực, về vật lực, về trí lực rất lớn để cho người Việt có thể tồn tại lâu dài.
Trong quá trình chống chọi với âm mưu và dã tâm của người phương Bắc, đã có những lúc ông cha chúng ta phải thực hiện kế hoạch “vườn không, nhà trống”, rút khỏi Kinh đô để tạm thời nhường đất của mình cho giặc. Rồi đợi đến khi thời thế thuộc về mình thì vùng lên đánh đuổi. Để có thể rút khỏi thành Thăng Long, rút khỏi Kinh đô như thế, chúng ta phải có một sự tích lũy về vật lực, tài lực và trí lực đầy đủ. Sự tích lũy đó không phải chỉ là sự tích lũy trong một triều đại, nó là sự tích lũy của nhiều triều đại qua nhiều năm lịch sử. Và cái phù sa của dòng sông Hồng, cái địa thế của dòng sông Hồng giúp chúng ta có một căn cứ địa, có một sự tích lũy ổn định về kinh tế, trí lực, vật lực, tài lực như vậy.
Nhưng dòng sông Hồng với văn minh châu thổ sông Hồng không chỉ tạo ra tích lũy về mặt vật chất mà quan trọng hơn nó còn tạo ra sự tích lũy về mặt tinh thần. Qua hàng trăm, hàng ngàn năm định cư ở dòng sông Hồng, ông cha ta đã hình thành nên một nền văn hóa “tính nước”, một nền văn hóa “âm tính”, một nền văn hóa “mẫu hệ”. Nó tương phản hoàn toàn với một nền văn hóa “dương tính”, một nền văn hóa “phụ quyền”, một nền văn hóa “gia trưởng” của người Hán.
Cho nên khi người Hán di dân xuống đây, cái nền văn hóa “phụ quyền”, “gia trưởng” ấy cộng hưởng với nền văn hóa “mẫu hệ”, “âm tính” của đồng bằng sông Hồng thì sau đó những thế hệ được sinh ra vẫn luôn luôn ý thức được rằng mình là những con người của nền văn minh sông Hồng, mình là những con người của nền văn hóa “âm tính”. Hoàn toàn khác biệt với nền văn hóa trước đó của người phương Bắc.
Lý do thứ 5: Vừa Hán hóa vừa giải Hán hóa.
Trong quá trình sống và tồn tại, chúng ta vừa bị Bắc thuộc nhưng chúng ta vừa giải Bắc thuộc. Chúng ta vừa bị Hán hóa nhưng chúng ta vừa giải Hán hóa. Đấy là cách mà chúng ta tồn tại.
Ví dụ như: nếu như nhìn vào một chiếc mũ, nếu như nhìn vào một chiếc áo, nếu như nhìn vào hình thức bên ngoài thì một viên quan Việt Nam rất giống với một viên quan Trung Quốc. Nhưng khi cởi cái mũ quan ra, cởi cái áo quan ra thì lại là một người Việt Nam rất khác với người Trung Quốc.
Một ví dụ khác nữa: ông cha chúng ta tiếp nhận chữ Hán nhưng tiếp nhận một cách chọn lọc. Chúng ta tiếp nhận cái văn tự của kẻ luôn luôn mang dã tâm xâm lược mình. Chúng ta học cái hay của văn minh đó, văn hóa đó nhưng không học một cách sao chép, một cách y nguyên. Vẫn là chữ Hán đó nhưng ông cha chúng ta lại phát âm theo cách của người Việt cho nên chúng ta vẫn tạo ra được cái riêng. Và sau này, chúng ta còn tạo ra được một loại chữ của riêng mình đó là chữ Nôm.
Cho nên trong lời hiệu triệu toàn quân, toàn dân chống quân Thanh, Hoàng đế Quang Trung đã nói rằng:
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Nếu “như đánh cho chích luân bất phản” - tức là đánh cho con ngựa nó không quay đầu được lại, “đánh cho phiến giáp bất hoàn” - tức là đánh cho tan tành không còn mảnh giáp là đánh giặc về mặt quân sự. Thì “đánh cho để dài tóc”, “đánh cho để đen răng” là đánh giặc về mặt văn hóa. “Đánh sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” - tức là đánh cho chúng biết nước Việt Nam có chủ đó là đánh về mặt lịch sử, về mặt chủ quyền, về mặt hồn cốt của một dân tộc.
Đứng trước một kẻ thù luôn luôn đầy dã tâm và tham vọng, rõ ràng ông cha chúng ta đã tìm ra được phương pháp tồn tại để vừa thích ứng với kẻ thù đó, vừa học cái văn hóa, cái hay của kẻ thù đó nhưng đồng thời vẫn tạo dựng nên cái hồn cốt của mình. Đặc biệt là giữ được độc lập chủ quyền, giữ được nền văn hóa Việt Nam hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét