Thứ Ba, 27 tháng 6, 2023

Xử lý nghiêm minh, loại trừ cái ác

 

Vụ tấn công ở Đắk Lắk hôm 11/6 diễn ra cùng hành vi tội ác man rợ, mất nhân tính, rất đáng lên án, cần được đấu tranh, xử lý nghiêm minh để loại trừ cái xấu, cái ác ra khỏi đời sống cộng đồng.


Hiện trường vụ tấn công trụ sở UBND xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin. Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN

Dư luận đã bàng hoàng khi biết tin vào rạng 11/6, các nhóm đối tượng sử dụng vũ khí tấn công manh động vào trụ sở UBND hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur thuộc huyện Cư Kuin. Tới nay, toàn bộ đối tượng cầm đầu và hầu hết các đối tượng tham gia trực tiếp vụ tấn công nêu trên đã bị bắt giữ. Bước đầu, cơ quan điều tra đã ra quyết định tạm giữ hình sự hơn 60 đối tượng và tiếp tục củng cố hồ sơ để khởi tố vụ án.

Tại trụ sở điều tra, nghi phạm tên là Y Chanh Niê khai rằng kẻ chủ mưu “hứa hẹn cho mình cuộc sống ấm no, giàu sang”, bảo “cứ thấy người là giết, là xả súng”. Nghi phạm tên là Y Măn Miô thì cho biết người cầm đầu ra lệnh “người dân không nghe theo ý mình là đâm”. Hệ quả từ những hành vi tội ác man rợ, mất nhân tính của chúng là tám đồng chí cán bộ xã, công an xã đã hi sinh và bị thương, đồng thời cướp đi tính mạng của ba người dân trên địa bàn.

Chưa tính tới yếu tố vi phạm pháp luật nghiêm trọng, việc lấy đi tính mạng của người khác, để con cái họ phải sớm thắt lên đầu vành tang trắng nhằm giúp bản thân có được cuộc sống sung sướng hơn là rất đáng lên án và cần phải trừng trị nghiêm khắc. Dù pháp luật có những quy định khoan hồng với những kẻ nhận thức được hành vi sai trái, ra đầu thú và ăn năn hối cải, nhưng chúng chắc chắn sẽ không thoát khỏi toà án lương tâm. Đây là hình phạt nghiêm khắc nhất mà con người có lương tri phải đối diện. Hình phạt ấy không có không gian, thời gian, nhưng tâm can thì nhức nhối cả đời, tiếng xấu thì để lại muôn đời.

Bên cạnh đó, vụ tấn công ở Đắk Lắk, theo đánh giá bước đầu, nguyên nhân là do âm mưu của các thế lực thù địch, một số đối tượng Fulro lưu vong kích động một số người dân tộc thiểu số chia rẽ người Kinh với dân tộc thiểu số gây mất trật tự và gây tiếng vang ở nước ngoài. Dù lực lượng Công an đang tiếp tục điều tra, làm rõ vấn đề này, nhưng thực tế cho thấy Tây Nguyên có vị trí địa chính trị quan trọng về nhiều mặt, lại là địa bàn có đầy đủ 54 dân tộc sinh sống, nhiều tôn giáo đang hoạt động, có yếu tố biên giới. Cho nên, các thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại, gây mất ổn định chính trị xã hội ở đây, bao gồm việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để xuyên tạc, kích động nhằm chống phá chính quyền.


Người dân trở lại sinh hoạt thường nhật sau sự việc nhóm đối tượng dùng súng, dao tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: Quang Thái/TTXVN

Gần đây, các thế lực thù địch có chiều hướng chú trọng dùng “chất xúc tác” mới là lợi dụng việc khiếu kiện của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên về cưỡng chế đất đai tại một số huyện như Ea Súp, Cư Mgar… đưa tin vu cáo chính quyền Việt Nam cướp đất, tước “nhân quyền” của người dân tộc thiểu số. Nhưng phải khẳng định rằng đất bị thu hồi có nguồn gốc từ phá rừng, thuộc quy hoạch đất lâm nghiệp và việc chính quyền, các cơ quan nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất là đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.

Dẫu vậy, do không đủ trình độ và thiếu hiểu biết pháp lý, một số người dân đã bị dụ dỗ, tham gia hoạt động phản đối các quyết định cưỡng chế, thu hồi; yêu sách đòi chính quyền nếu thu hồi, phải bố trí đất tái định cư, đất sản xuất và bồi thường tài sản thỏa đáng hoặc cương quyết không trả đất cho chính quyền; thậm chí còn thực hiện các hành động hủy hoại tài sản của Nhà nước gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Sau đó, dưới lăng kính của các thế lực thù địch thì câu chuyện khiếu kiện đất đai thông thường trở nên méo mó, biến dạng, thay đổi bản chất, trở thành “vấn đề nóng”, đó là chính quyền đàn áp, vi phạm quyền tự do tôn giáo, nhân quyền của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Đây là những biến tướng mang màu sắc chính trị, cần phải hết sức cảnh giác.

Đối với vụ tấn công ở Đắk Lắk ngày 11/6, các tài liệu, vật chứng đã chứng minh rõ vụ việc được thực hiện bởi một nhóm có tổ chức, bàn bạc, phân công cụ thể với nhiều hoạt động, hành vi đặc biệt nguy hiểm. Do đó, sau khi điều tra làm rõ, các cơ quan chức năng cần trừng trị nghiêm khắc những kẻ cầm đầu, những kẻ xúi giục người dân thiếu hiểu biết thực hiện hành vi tội ác, đi ngược lại lợi ích của dân tộc.

Năm 2018 từng xảy ra vụ án xâm phạm an ninh quốc gia do tổ chức phản động “Triều đại Việt” thực hiện. Các đối tượng đã đến trụ sở công an phường 12, quận Tân Bình (TP Hồ Chí Minh) đặt hai trái nổ rồi dùng điều khiển đứng từ xa kích hoạt. Vụ nổ làm hai cán bộ công an phường 12 bị thương, tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là hơn 380 triệu đồng. Sau đó, các đối tượng đều phải lãnh án tù thích đáng về các tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”, “chế tạo, tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ”. Ngoài ra, mỗi bị cáo còn chịu hình phạt bổ sung quản chế từ 3 – 5 năm sau khi mãn hạn tù.


Hội viên, phụ nữ xã Ea Ktur nấu cơm hỗ trợ cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ tại xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: Hoài Thu/TTXVN

Trở lại vụ tấn công ở Đắk Lắk ngày 11/6, một bản án nghiêm khắc nhất dành cho những kẻ thủ ác nhằm vào chính đồng bào mình bằng các hành vi man rợ, mất nhân tính là điều mà dư luận hoan nghênh. Bởi những gì chúng làm không chỉ coi thường pháp luật, mà còn làm xáo trộn cuộc sống bình yên nơi buôn làng, gây rối trật tự xã hội, chà đạp nên tình đoàn kết giữa các dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia. Nhưng nếu được chứng kiến hình ảnh thanh niên, bô lão chỉ có gậy gộc thô sơ vẫn luôn sẵn sàng tham gia truy bắt các đối tượng; các chị, các mẹ nấu cơm tiếp sức cho các tổ chốt chặn và lực lượng chức năng; người dân kêu gọi, hỗ trợ gia đình cán bộ, chiến sỹ đã hy sinh có hoàn cảnh khó khăn… chúng sẽ hiểu rằng Tây Nguyên không chỉ là một địa danh, mà Tây Nguyên còn là máu thịt của đất nước.

Ở nơi là “phên giậu” phía Tây của Tổ quốc ấy, như trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku năm 1946, “đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, JRai hay Ê Đê, Sê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là anh em ruột thịt… Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau… Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”./.

Thành trì vững vàng chống những ‘viên đạn’ dã tâm

 

Luận điệu chống phá của các thế lực thù địch như những viên đạn mang dã tâm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đã không thể vượt qua tấm khiên vững chắc là sự thật và lòng người.

Ngay sau khi xảy ra vụ việc nhóm đối tượng dùng súng tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu, Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk vào rạng sáng 11/6 gây tổn thất nghiêm trọng về người và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, thì trên mạng xã hội và những trang báo tiếng Việt từ nước ngoài, những thông tin liên quan vụ việc này cũng xuất hiện, trong đó có nhiều thông tin sai lệch, cố tình bóp méo, suy diễn.


Một số trang tiếng Việt ở hải ngoại với các bài viết mang luận điệu xuyên tạc, bóp méo, suy diễn về vụ việc nhóm đối tượng dùng súng tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu, Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk vào rạng sáng 11/6.

Các đài RFA, BBC và VOA… dẫn ý kiến người dân và giới quan sát chính trị, nhưng với những trích dẫn mang tính thiên lệch. Theo họ, nguyên nhân “châm ngòi” cho sự việc ngày 11/6 là tranh chấp đất đai và căng thẳng sắc tộc lâu nay dâng cao tại Tây Nguyên. Các trang này đăng tải các thông tin quy chụp rằng "người dân Tây Nguyên bị cướp đất", "bi cô lập"... nên "phải vùng dậy", và đưa ra các nhận định đổi lỗi cho chính quyền. 

Có đài trích dẫn báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW, trụ sở tại Mỹ), cho rằng nguyên nhân là Việt Nam “đã phát động các phong trào tuyên truyền mạnh mẽ nhằm xóa bỏ Tin Lành Đề-ga và ép tín đồ Cơ đốc người Thượng gia nhập Hội thánh Tin Lành Việt Nam - miền Nam”.

Có đài dẫn lời một luật sư cho rằng ở Việt Nam, không ít người dân có quan niệm là chính quyền “có lỗi” trong những bất công, nên họ “hả hê” khi thấy những vụ tấn công vào cán bộ, nhân viên chính quyền… VOA thì khẳng định một cách vô căn cứ: “Tấn công vũ trang ở Đắk Lắk có gốc rễ sắc tộc”...

Các đài này phỏng vấn đại diện các tổ chức lưu vong núp dưới danh nghĩa tổ chức tôn giáo độc lập và dân sự của người Thượng ở Tây Nguyên (nhưng lại sống tại nước ngoài), lợi dụng và xoáy sâu vào vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, đất đai, để kích động tư tưởng ly khai, “bài Kinh”.

Thậm chí, theo đài RFA, Y-Duen Buondap, Giám đốc điều hành của Tổ chức Đề-ga Tây Nguyên (trụ sở tại North Carolina, Mỹ), còn tuyên bố sẽ “báo cáo Liên hợp quốc cũng như Chính phủ Mỹ về những vi phạm nhân quyền ở đây” (!).

Như một trận tấn công tàn ác dù không tiếng súng, những luồng thông tin xấu độc tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định xã hội, khiến người dân lo lắng, ảnh hưởng tới đời sống và lao động, sản xuất, gây khó khăn với công tác điều tra của cơ quan chức năng. Dù ẩn sâu dưới lớp vỏ tinh vi, nhưng các bài viết trên các trang tiếng Việt này không giấu nổi mưu đồ ác ý, nhằm tạo ra và khoét sâu, kích động mâu thuẫn, để chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.

Cùng với những sự can thiệp đầy ác ý này của các đài nước ngoài, mạng xã hội cũng xuất hiện những tin giả, tin không đúng sự thật. Nhiêu hình ảnh, video được chỉnh sửa, cắt ghép xuất hiện với ý đồ rõ rệt là gây hoang mang dư luận và kích động người dân, hướng về chỉ trích chính quyền sở tại và Nhà nước. Nguyễn Văn Đài, luật sư người Việt tị nạn ở nước ngoài, lên trang cá nhân trắng trợn bịa đặt, rằng “người dân Tây Nguyên đã đứng lên khởi nghĩa...”. Một số cá nhân sử dụng mạng xã hội trong nước thì hùa theo, chia sẻ các bài viết với luận điệu phản động, kèm những comment tiêu cực.


Những luận điệu xuyên tạc của đối tượng Nguyễn Văn Đài.

Tuy nhiên, sự thật hoàn toàn trái ngược những gì mà các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng vụ việc này để tuyên truyền chống phá.

Ngay sau khi vụ việc diễn ra, người dân tại địa phương và đại đa số nhân dân Việt Nam bày tỏ sự căm phẫn trước hành vi tàn ác của các đối tượng phạm tội. Nhiều già làng, Người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên kịch liệt lên án hành động phá rối an ninh trật tự, tấn công vào trụ sở cơ quan nhà nước ở các xã thuộc huyện Cư Kuin (Đắk Lắk), sát hại dã man những cán bộ chiến sĩ Công an, cán bộ xã và dân thường. Các chức sắc tôn giáo và giáo dân tại Tây Nguyên đã lên tiếng bày tỏ sự bất bình trước những luận điệu chia rẽ của một số đối tượng từ bên kia biên giới. Người dân xót xa trước sự hy sinh của các chiến sĩ và đồng bào, bày tỏ sự tiếc thương sâu sắc, và tích cực tham gia tố giác tội phạm, cung cấp thông tin chính xác giúp lực lượng chức năng truy bắt đối tượng phạm tội.


Nhờ “thế trận lòng dân” hỗ trợ, các lực lượng chức năng đã nhanh chóng bắt giữ toàn bộ các đối tượng cầm đầu, và đến 20/6/2023, đã có 74 đối tượng tham gia vụ việc này bị tạm giữ hình sự. Các đối tượng bị bắt giữ khai nhận bị lôi kéo, dụ dỗ thực hiện hành vi do được hứa hẹn sẽ được cho tiền, tài sản sau khi thực hiện hành vi phạm tội. 


Lực lượng chức năng dẫn giải các nghi can trong vụ dùng súng tấn công trụ sở UBND 2 xã ở Đắk Lắk. Ảnh: Hưng Thịnh/TTXVN

Sự đoàn kết, đồng lòng của bà con các dân tộc trên địa bàn Đăk Lăk cho thấy những luận điệu về xung đột sắc tộc, tôn giáo nơi đây là hoàn toàn không có căn cứ.

Người dân Cư Kuin nói riêng, Tây Nguyên nói chung đang đồng lòng, chung sức cùng với chính quyền để xây dựng kinh tế - xã hội, thực hiện hiệu quả các chương trình phát triển vùng miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn… mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Sự chăm lo của Đảng và nhà nước dành cho đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào Tây Nguyên thể hiện qua các chính sách ưu tiên phát triển kinh tế và an sinh xã hội đã và đang triển khai tới từng buôn, làng, đem tới cuộc sống ấm no, trù phú, ổn định cho người dân nơi đây. Dù còn nhiều khó khăn, nhưng Đăk Lăk và các tỉnh Tây Nguyên có hàng trăm xã đạt chuẩn nông thôn mới, trên 90% người dân được sử dụng nước hợp vệ sinh; 100% xã và 99,39% thôn, buôn có điện; 100% các tỉnh đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt hơn 95%; 100% số xã có trạm y tế, trong đó có 67% số xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia y tế. Những vùng cây ăn trái bền vững xuất khẩu, những sản phẩm nông sản chủ lực mang nguồn thu lớn cho người dân… Các công trình thủy điện, điện mặt trời; các trường học, trạm y tế khang trang; các vùng nguyên liệu được quy hoạch khoa học; các nơi thờ tự tôn giáo tôn nghiêm; các công trình, dự án phát triển văn hóa bản địa… cùng dự án đường Đông Tây thành phố Buôn Ma Thuột đã hoàn thành; Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa-Buôn Ma Thuột đã khởi công xây dựng.... và hàng hoạt công trình trọng điểm lớn giúp cho Tây Nguyên cất cánh.

Cùng với triệt phá âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá của những đối tượng phản động, lưu vong, chính quyền các cấp cũng tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động tôn giáo, qua đó, vừa giúp bà con thực hành tín ngưỡng, vừa không để tôn giáo bị lợi dụng để biến địa phương thành điểm nóng về an ninh trật tự….

Tất cả những điều này cho thấy nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc đầu tư phát triển Tây Nguyên, để đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây “không ai bị bỏ lại phía sau”. Đây là những minh chứng rõ nét từ thực tế, cho thấy những luận điệu chống phá dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc… là hoàn toàn bịa đặt. Những comment, những status sai sự thật trên các mạng xã hội với tư tưởng chống phá, xuyên tạc… cũng đều bị cơ quan chức năng làm rõ và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.


Ngày 16/6, Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xử phạt ông N.H.A.D (sinh năm 1967, ngụ tại xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh) vì hành vi đăng tải thông tin sai sự thật trên mạng xã hội Facebook về vụ việc một nhóm người tấn công trụ sở UBND xã tại tỉnh Đắk Lắk.

Đến nay, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn Đăk Lăk nói riêng và các tỉnh Tây Nguyên nói chung đã ổn định, người dân yên tâm sinh hoạt, lao động sản xuất và đồng lòng với chính quyền các cấp tích cực hưởng ứng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, phát huy sức mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân vững chắc, góp phần vào sự ổn định, phát triển của địa phương. Mỗi người dân đều có nhận thức sâu sắc và cảnh giác trước những luận điệu lôi kéo, dụ dỗ, kích động của các thế lực thù địch; không nghe, không tin, không làm theo những thông tin sai trái, xuyên tạc, cố tình bóp méo sự thật, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tận mắt chứng kiến hậu quả của những người nhẹ dạ nghe theo kẻ xấu, đồng thời được đón nhận sự quan tâm của các cấp chính quyền, người dân được tăng cường niềm tin vào sự công minh của luật pháp Việt Nam và chính sách dân tộc tôn giáo cùng các chương trình ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội các khu vực khó khăn của Đảng và Nhà nước.


Người dân xã Ea Ktur đã quay trở lại cuộc sống thường nhật sau sự việc nhóm đối tượng dùng súng, dao tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: Quang Thái/TTXVN

Thực tế đời sống ngày một khởi sắc của đồng bào và tình yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết các dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung là lời đáp trả mạnh mẽ nhất đối với những luận điệu chống phá; đồng thời là tấm khiên, là thành lũy vững vàng trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng trước âm mưu, thủ đoạn, của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm./.

Không thể phủ nhận vai trò to lớn của phong trào Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh

 

Như một thói quen, cứ vào tháng 5 hằng năm, khi cả dân tộc Việt Nam đang hướng về ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh thì các thế lực thù địch, phản động cơ hội, bất mãn về chính trị lại tăng cường các hoạt động chống phá xuyên tạc hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, như vừa qua trên trang Facebook: Đài Á Châu tự do RFA đăng bài: “Càng thi đua học tập theo gương Hồ Chí Minh, càng lộ nhiều quan chức tham nhũng” với luận điệu sai trái rằng: “học tập làm theo tấm gương Hồ Chí Minh là vô bổ, tốn ngân sách, hình thành một thế hệ làm theo một hình mẫu do người khác định hướng không được tự do khám phá và thể hiện khả năng bản thân”.

Trước hế, cần khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Người là kết tinh rạng ngời của đạo đức, trí tuệ, khí phách, lương tri của dân tộc và thời đại. Trọn cả cuộc đời, Người dâng hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, đây là sự thật được cả thế giới công nhận. Học tập và làm theo Người giúp đội ngũ cán bộ đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện và cống hiến phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân.

Trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước, để phát triển đất nước, với quyết tâm không có vùng cấm, không có ngoại lệ; không chịu sự tác động không đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào; gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay đã và đang từng bước kiềm chế, ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Vì vậy, không thể nói “học tập làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh là vô bổ, càng học tập làm theo càng có nhiều cán bộ quan chức tham nhũng”.

Thứ hai, Học tập làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh không cản trở tự do khám phá và thể hiện khả năng bản thân, trái lại còn khuyến khích, tạo điều kiện cho cá nhân phát triển toàn diện.

Chủ tích Hồ Chí Minh, là một tấm gương sáng ngời về lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa yêu thương, vì nước, vì dân; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách làm việc; phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt; sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm. Những phẩm chất này là những yếu tố quan trọng trong việc khám phá và phát triển bản thân và đây cũng là những phẩm chất rất cần thiết cho sự phát triển cá nhân của mỗi người. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu rõ về những phẩm chất đó, rèn luyện hình thành và hành động theo những phẩm chất giá trị đó. Ngoài ra, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khuyến khích khả năng độc lập tư duy, sáng tạo và khám phá, Người luôn đề cao sự tự học, ham đọc sách, nghiên cứu và học hỏi, khuyến khích mọi người phát triển trí tuệ và tư duy sáng tạo của mình. Tư tưởng này không giới hạn hoặc cản trở khả năng khám phá và phát triển bản thân, mà ngược lại, nó truyền cảm hứng và là động lực để mỗi người tự tin vươn tới những mục tiêu mới. Vì vậy, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh không chỉ giúp chúng ta trở nên tốt đẹp hơn về mặt đạo đức và nhân cách, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta phát triển bản thân và khám phá tiềm năng của mình trong mọi lĩnh vực.

Như vậy, luận điệu cho rằng: “học tập làm theo tấm gương Hồ Chí Minh là vô bổ, tốn ngân sách, hình thành một thế hệ làm theo một hình mẫu do người khác định hướng không được tự do khám phá và thể hiện khả năng bản thân” là xuyên tạc, ngụy biện, quy chụp, cố tình tạo ra sự hiểu lầm trong quần chúng nhân dân, nhằm mục đích, phá hoại cuộc vận động học tập và làm theo tấm ngương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; xóa nhòa hình tượng Bác Hồ trong lòng mỗi người dân Việt Nam;  kích động tư tưởng chống phá Đảng, Nhà nước. Những âm mưu thủ đoạn như thế không thể phủ nhận tính đúng đắn và giá trị to lớn của cuộc vận động Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh./.

BÁO CHÍ XUNG KÍCH TRÊN MẶT TRẬN BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 

Trong những năm gần đây,  các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta với những âm mưu ngày càng thâm độc, những thủ đoạn ngày càng tinh vi. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW  về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.

Nghị quyết số 35-NQ/TW  đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của báo chí - truyền thông trong công tác xây dựng, bảo vệ Đảng. Đó là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan báo chí, xuất bản, truyền thông; vận dụng tổng hợp các hình thức tuyên truyền, kết hợp chặt chẽ với đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng, tuyên truyền đối ngoại, tuyên truyền trên Internet, các mạng xã hội và các kênh truyền thông khác, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ quan trọng của báo chí trong tình hình mới là: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”.

Sau gần 5 năm thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW và hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta đã đạt được một số kết quả quan trọng với những dấu ấn nổi bật. Các cơ quan báo chí, các nhà báo luôn ở vị trí xung kích đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Hiện nay, đội ngũ nhà báo Việt Nam hùng hậu cả về số lượng và chất lượng, trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp không ngừng được nâng cao, đáp ứng tốt những yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn đang đặt ra.  Với sự ra đời của các   loại hình truyền thông đa phương tiện, hiện đại, tạo mạng lưới thông tin rộng khắp ở các vùng, miền, các cơ quan báo chí đã   tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời, sinh động, hấp dẫn đến với mọi tầng lớp nhân dân. Những thông tin, bài viết của các nhà báo đã góp phần gắn kết và thắt chặt mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với nhân dân; củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tuy nhiên, trên mặt trận chính trị tư tưởng hiện nay, báo chí nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Trước những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa, một số cơ quan báo chí có xu hướng thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận, đề cao vật chất, rời xa tôn chỉ, mục tiêu, sứ mệnh cao cả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Một số cơ quan báo chí còn thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính xác, ít tuyên truyền các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt...

Trong quá trình thực thi nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhiều cơ quan báo chí, nhiều nhà báo gặp phải không ít khó khăn do thiếu thông tin, thiếu cơ chế bảo vệ, cơ chế phối hợp xử lý. Điều đáng quan tâm là một số cơ quan báo chí chưa dám đấu tranh trực diện với những phần tử sai trái, phản động, xuyên tạc; chưa đâu tư thích đáng cho công tác này.

Việc cung cấp thông tin cho báo chí về đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang tồn tại nhiều bất cập. Nhiều thông tin báo chí không có điều kiện tiếp cận, không được biết.

Nhà báo tham gia đấu tranh chống quan điểm sai trai thù địch là chấp nhận sự nguy hiểm, rủi ro lớn. Nhưng cơ chế bảo vệ họ lại thiếu chặt chẽ.

Để tiếp tục phát huy vai trò của báo chí  trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,   cần  kiên quyết, kiên trì thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị  đã đề ra. Trong đó, cần  đặc biệt quan tâm đến những giải pháp sau đây:

Một là, tăng cường công tác giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao trách nhiệm  của người làm báo. Kết hợp chặt chẽ công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, quần chúng với công tác kiểm tra, giám sát đảng viên trong các cơ quan báo chí. Thường xuyên giám sát, kiểm tra phẩm chất đạo đức, nghiệp vụ, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành luật pháp và quy tắc ứng xử của nhà báo. Quan tâm bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ phóng viên, biên tập viên; giám sát việc thực hiện các quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam.

Hai là,  các cơ quan báo chí  cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”;  “Phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa;  “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; “Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”…

Ba là,  nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, tính thuyết phục cao. Gắn kết chặt chẽ yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên, học viên, sinh viên, với công tác tổ chức, cán bộ, bảo vệ nội bộ, xây dựng tổ chức đảng và xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh.

Bốn là,  kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh, cả trực tiếp và gián tiếp; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan báo chí  để viết bài đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội.

Năm là,  các cơ quan báo chí cần tiếp tục đổi mới, thực hiện tốt các chương trình, chuyên mục bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phản bác tin giả, thông tin sai sự thật, quan điểm sai trái, thù địch, góp phần định hướng, dẫn dắt thông tin chính thống theo quan điểm, đường lối của Đảng; góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan báo chí  và các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước  trong việc thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW nhằm cung cấp thông tin, phát huy thế mạnh của từng cơ quan báo chí trên mặt trận đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch./.

GIÁ TRỊ CÂU CHUYỆN BÓ ĐŨA TRONG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

 

Âm mưu chia rẽ dân tộc theo vùng miền, đất Tây nguyên của riêng dân tộc Tây Nguyên là quan điểm phá hoại đoàn kết cực kỳ nguy hiểm. Không có một đất nước nào chia rẽ mà giàu mạnh cả.


Lịch sử thế giới cận hiện đại đã chứng minh, nước nào đoàn kết, ít xung đột thì giàu mạnh, như Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Mỹ, Úc… nước nào chia rẽ, ly khai, xung đột sắc tộc thì loạn lạc, đói nghèo, như Syria, Iraq, Kyrgyzstan, Cotđivoa, Côngô, Nigêria, Uganđa, Ruanda, Angôla, Xuđăng, Xômali… Đó là quy luật tất yếu.

Đất nước ta có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, nếu chia nhỏ ra thì rất yếu, chắc chắn sẽ bị các nước khác thôn tính. Thực tế nước ta đã phải chịu hàng chục cuộc thôn tính của ngoại xâm, nhưng nhờ đoàn kết mà ngoại bang không làm gì được. Đất nước ta vẫn luôn trường tồn, phát triển, dân ta ngày càng ấm no hạnh phúc, đó không chỉ là một quy luật tất yếu, mà còn là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đúng là: tình ruột thịt, nghĩa đồng bào, bát cơm chung bữa, máu đào giúp nhau; nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng… Có được như ngày hôm nay là thành quả chung của cộng đồng 54 dân tộc. Tất cả các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều chung sống an vui, đoàn kết, cùng nhau xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không phân biệt vùng miền, dân tộc. Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã cho thấy, bất kỳ ở đâu và trong thời điểm nào thì đồng bào các dân tộc thiểu số anh em cũng kề vai, sát cánh cùng với đồng bào Kinh để cùng chống thiên tai, địch họa, dịch bệnh... Bất cứ một dải đất biên cương nào của Tổ quốc cũng có sự góp sức, không kể máu xương của đồng bào các dân tộc anh em. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tình cảm và trái tim, sự quan tâm đặc biệt đối với đồng bào các dân tộc “54 dân tộc anh em sinh sống trên mọi miền đất nước đều là anh em một nhà/đều là thành viên không thể chia cắt của đại gia đình các dân tộc Việt Nam”.


Vậy mà, có những kẻ chỉ vì chút lợi trước mắt mà bán rẻ lương tâm, cố tình xuyên tạc, gây kích động hận thù, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, bóp méo sự thật, hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và thành quả Cách mạng Việt Nam.

Đừng bao giờ mắc bẫy kẻ thù, chúng luôn tìm cách chia rẽ dân tộc ta để dễ bề xâm lược, cai trị: nhà Minh thì chia dân ta thành người sang, kẻ hèn để kích động sự khinh ghét lẫn nhau; giặc Nguyên Mông thì mưu đồ mượn Chiêm Thành đánh nhà Trần; thực dân Pháp thì chia nước ta thành 3 kỳ Bắc, Trung, Nam; Mỹ chia nước ta thành 2 miền Nam, Bắc; thế lực thù địch bây giờ thì chia rẽ các dân tộc, tôn giáo… nhằm làm cho dân ta nghi kỵ, mâu thuẫn nhau, xung đột nhau, đất nước loạn lạc, kinh tế nghèo nàn… 

Cho dù các thế lực thù địch có trăm phương ngàn kế, thì các dân tộc Việt Nam vẫn luôn kiên quyết chống lại mọi thủ đoạn chia rẽ dân tộc, kích động ly khai, phá hoại đoàn kết, chung sức đồng lòng xây dựng quê hương, đất nước hoà bình thống nhất, kinh tế ngày càng phát triển, xã hội bình yên, đời sống ấm no hạnh phúc. Đúng là trời của chúng ta, đất của chúng ta.
Có được như ngày nay, xin đừng bao giờ quên câu chuyện bó đũa, đừng bao giờ quên những cuộc chiến tranh giải phóng, đừng quên cảnh nồi da xáo thịt thời kỳ loạn 12 xứ quân, Trịnh Nguyễn phân tranh; dưới ách thực dân Pháp, đế quốc Mỹ dân ta đau khổ thế nào. Cái giá của hoà bình, thống nhất là vô vàn xương máu! Cho nên phải quý trọng mà cùng nhau gìn giữ, chứ đừng bao giờ gây chiến loạn phân tranh, làm khổ muôn đời con cháu.


Phải luôn nhớ rằng nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi, đó là chân lý muôn đời mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Đừng bao giờ nghe ngoại bang khác máu, tanh lòng xúi dục đồng bào chia rẽ, mất đoàn kết.

Năm tư cốt nhục đồng bào,
Một dân một nước lẽ nào không thương💕!

Chấn hưng văn hóa Việt Nam - yêu cầu được khẳng định từ thực tiễn

 

Văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Văn hóa được đề cao, môi trường văn hóa lành mạnh thì xã hội ổn định, phát triển và ngược lại, khi văn hóa có biểu hiện xuống cấp, gây ảnh hưởng, tác động thiếu tích cực đến môi trường xã hội, đời sống xã hội; đặc biệt khi đất nước đứng trước những dấu mốc quan trọng, cần những động lực mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình phát triển - tất yếu phải tiến hành chấn hưng văn hóa.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với các đại biểu tham dự Hội nghị văn hóa toàn quốc tại Nhà Quốc hội, ngày 24-11-2021 _Nguồn: vietnamnet.vn

Xét về bản chất ngôn ngữ học, chấn hưng là làm cho trở thành hưng thịnh, thịnh vượng(1). Chấn hưng văn hóa là làm cho các giá trị văn hóa tốt đẹp của quốc gia - dân tộc được đề cao và phát huy mạnh mẽ hơn. Như vậy, về bản chất, yêu cầu chấn hưng văn hóa hiện nay là tạo ra tác động làm cho các giá trị văn hóa được phát huy, phát triển, đóng góp vào sự phát triển chung để nâng tầm đất nước, đưa đất nước lên một vị thế mới.

Khái quát các mặt tích cực và hạn chế; những yêu cầu của thời kỳ phát triển mới vì sự hưng thịnh của một nền văn hóa; đón trước thời cơ và trên cơ sở nhận diện các thách thức đối với văn hóa Việt Nam trong thời gian tới, có thể khẳng định chấn hưng văn hóa ở nước ta hiện nay là quan trọng và cấp thiết.

Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(2), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết “Quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Ngay từ tiêu đề, Tổng Bí thư đã khẳng định “Quyết tâm chấn hưng”, đồng thời trực diện đưa ra định hướng đường lối phát triển văn hóa đất nước trong bối cảnh hiện nay là “xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Quyết tâm và định hướng này của Tổng Bí thư chính là dấu mốc quan trọng đối với quá trình phát triển nền văn hóa Việt Nam; khẳng định thời điểm văn hóa Việt Nam cần được chấn hưng để tạo nền tảng nhận thức đúng đắn, đầy đủ, toàn diện về văn hóa trong mối quan hệ với phát triển; tạo động lực quan trọng cho phát triển bền vững, thông qua khắc phục các hạn chế, tồn tại, phát triển hài hòa, đồng bộ giữa văn hóa với kinh tế, xã hội, với xây dựng đời sống hạnh phúc cho toàn thể nhân dân.

Nhìn lại các cuộc chấn hưng văn hóa trong lịch sử

Lịch sử thế giới ghi nhận thời kỳ Phục hưng(3) đã mang đến những giá trị to lớn cho châu Âu. Sự khởi nguồn của thời kỳ Phục hưng có nhiều tranh cãi, nhưng cơ bản cho rằng Phục hưng bắt đầu từ Firenze (I-ta-li-a), nơi có truyền thống trọng nghệ thuật.

Phục hưng là phong trào văn hóa tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến trí thức và nghệ sỹ châu Âu. Trong cuộc cách mạng tư tưởng, văn hóa, xã hội, khoa học, triết học,... thời kỳ đó, văn hóa đóng vai trò quan trọng trong thay đổi cách suy nghĩ và hành động của con người, các học giả sử dụng phương pháp nhân văn trong nghiên cứu về thế giới xung quanh, về các hiện tượng khoa học, trong nhìn nhận về hiện thực đời sống, trong cảm xúc nghệ thuật. Việc đề cao, coi trọng các giá trị nhân văn, như tự do, công bằng, đạo đức,... chính là cơ sở thúc đẩy phát triển, xây dựng nền tảng để nhiều ngành, lĩnh vực phát triển mạnh mẽ, là cơ sở để khả năng sáng tạo của con người được khai thác tối đa, đưa đến những thành tựu to lớn, từ phát triển các lý thuyết mới trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, toán học, sinh học, giáo dục đến sự ra đời các tác phẩm văn học, nghệ thuật vô giá. Có thể kể đến những thành tựu, như sáng chế bộ đếm số, bảng tính đặt tiền đề cho ngành khoa học máy tính; thành tựu của thuật số học mang đến sự phát triển mạnh mẽ cho ngành in; sáng chế kính viễn vọng và thuyết trái đất quay quanh mặt trời của Galileo Galilei tạo ra bước ngoặt với những hiểu biết mới về vật lý; sáng chế động cơ hơi nước đặt nền móng cho sự bùng nổ của các cuộc cách mạng công nghiệp; các tác phẩm nghệ thuật, như Mona Lisa, The Last summer,... của Leonardo da Vinci, The school Athens, The Sistine Madonna,... của Rafael, Moonlight Sonata, Symphony No.5, Symphony No.9 của Beethoven, Piano Concerto No.21, The Marriage of Figaro,... của Mozart, Brandenburg Concertos, Mass in B Minor,... của Johann Sebastian Bach,... trở thành các di sản vô giá cho hậu thế.

Có thể thấy, những thành tựu của thời kỳ Phục hưng là kết quả sự nỗ lực của các trí thức và nghệ sỹ; cho thấy văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn lao đến mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học,... Văn hóa thời kỳ Phục hưng không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội châu Âu thời kỳ đó, mà còn là nền tảng, là động lực thúc đẩy sự phát triển, thậm chí định hình một số giá trị cốt lõi của châu Âu hiện đại sau này.

Nhìn lại lịch sử đất nước, không ít cuộc chấn hưng văn hóa đã được kêu gọi và thực hiện. Đó là cuộc chấn hưng văn hóa cách đây hơn 100 năm - cuộc Duy Tân văn hóa do nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh (1872 - 1926) phát động năm 1906. Phong trào diễn ra trong 2 năm và đã tạo nên một dấu ấn quan trọng trong lịch sử. Phong trào chủ trương khôi phục đất nước bằng Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh(4). Thời điểm đó, các yếu tố thúc đẩy cuộc Duy Tân văn hóa chính là những thay đổi về nền tảng kinh tế và cơ cấu xã hội(5), văn hóa Việt Nam trên mọi phương diện, khía cạnh. Đặc biệt, văn hóa tư tưởng, văn hóa đạo đức, văn hóa lối sống... đều đứng trước khủng hoảng. Những giá trị văn hóa truyền thống của nền văn hóa Nho giáo, của chế độ phong kiến, của nền kinh tế nông nghiệp vốn đã ăn sâu vào đời sống xã hội, vào tâm thức người dân bị tác động, ảnh hưởng bởi chính sách nô dịch văn hóa. Chế độ thực dân thực thi chính sách “ngu dân”, khoét sâu tâm lý “an phận thủ thường”, “biến quần chúng thành những đám đông tự ti, khiếp nhược trước sức mạnh của văn minh đại Pháp, mất tin tưởng vào khả năng và tiền đồ của dân tộc, cắt đứt với mọi truyền thống tốt đẹp, phục vụ trung thành cho quyền lợi của đế quốc”(6), dẫn đến một xu hướng văn hóa biến đổi, lai căng... Những biến đổi nhanh chóng và ngày càng sâu sắc trong đời sống xã hội, trong các quan hệ xã hội, trong nhận thức về các giá trị văn hóa đã tạo ra những áp lực về một cuộc cách tân văn hóa. Thời điểm đó, văn hóa Việt Nam ở vào tình thế phải lựa chọn con đường phát triển.

Năm 1946, chỉ một năm sau khi nước ta giành được độc lập, đất nước đang trong thời kỳ khó khăn, nhưng đứng trước yêu cầu về xây dựng một nền văn hóa mới vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất đã được tổ chức. Trong bài phát biểu khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “phải tiếp thu những kinh nghiệm của văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam với ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng”(7), và nhấn mạnh văn hóa phải lấy sự nghiệp đấu tranh của dân tộc làm nội dung phản ánh. Hội nghị cũng kế thừa nhiệm vụ được đề ra trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Hai năm trước khi giành được độc lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 (gọi tắt là Đề cương). Đây được xem là cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau khi thành lập nước năm 1945, tinh thần của bản Đề cương được phổ biến rộng rãi. Đề cương đã đánh giá sơ lược các giai đoạn trong lịch sử văn hóa Việt Nam, những “NGUY CƠ CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM DƯỚI ÁCH PHÁT XÍT NHẬT - PHÁP”(8); nêu rõ tính chất văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ “về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản”(9). Đề cương cũng chỉ rõ ba nguyên tắc vận động của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này là dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa(10). Đó cũng chính là bối cảnh cho thấy tính cấp thiết của Hội nghị văn hóa toàn quốc với những định hướng sâu sắc và cụ thể về đường lối phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.

Chấn hưng văn hóa Việt Nam - yêu cầu được khẳng định từ thực tiễn

Một là, từ những tác động khách quan. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khoa học - công nghệ thúc đẩy nền kinh tế tri thức phát triển, mạng xã hội xóa nhòa ranh giới địa lý, ranh giới giữa các nền văn hóa trên không gian mạng. Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa cũng diễn ra mạnh mẽ khiến các quốc gia gần nhau hơn cả trên không gian mạng và trong cuộc sống thực, đồng thời cũng tạo ra xung đột giữa các nền văn hóa, tạo môi trường cho hiện tượng “xâm lăng” văn hóa. “Xâm lăng” văn hóa vừa diễn ra tự nhiên theo quy luật của các nền văn hóa phát triển lấn át, chiếm thị trường của các nền văn hóa ít phát triển hơn, vừa có chủ đích của các chủ thể trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam vốn mang bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa với tính nhân dân rộng khắp và tính dân tộc sâu sắc đã và đang “đối mặt” với những xu hướng văn hóa đa dạng từ các nền văn hóa khác trên thế giới; bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc đã và đang đứng trước những thách thức của các xu hướng mới trong thời kỳ hiện đại... Trong quá trình đó, một số nét văn hóa truyền thống bộc lộ những hạn chế, không còn phù hợp với đời sống xã hội hiện nay, và một số cái mới, cái tiến bộ lại chưa định hình một cách rõ nét.

Hai là, hoạt động lãnh đạo, quản lý nhà nước về văn hóa cũng còn bộc lộ một số hạn chế, như văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ, tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực của sự phát triển bền vững đất nước”. Đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, giáo dục, đào tạo, thông tin đại chúng, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản, lý luận và phê bình văn học, nghệ thuật, văn hóa đối ngoại... tuy phát triển về quy mô, phạm vi, số lượng, nhưng chất lượng chưa cao, nhiều vấn đề mới nảy sinh chưa được giải quyết kịp thời. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao..., nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới(11)...

Ba là, nhân tố con người có những biểu hiện xuống cấp về văn hóa, đạo đức. Yếu tố con người - vốn là trọng tâm, là nhân tố quan trọng nhất cho phát triển cũng đang cho thấy những biểu hiện thiếu tích cực, cần có những giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò trong quá trình phát triển. Các cuộc chỉnh đốn Đảng trong 3 nhiệm kỳ gần đây của Đảng(12) đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, đó là hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, là tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống trong xã hội... Những biểu hiện của tình trạng này có xuất phát điểm từ những biểu hiện của nhận thức chưa đúng đắn về các giá trị đích thực của văn hóa trong bối cảnh mới; từ đó có những thái độ hoài nghi, hành động phản cảm và sự thiếu định hướng đúng đắn kịp thời về văn hóa. Một bộ phận chủ thể văn hóa là cá nhân chưa phân biệt được các giá trị văn hóa đích thực, “nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là “vô văn hóa”, “phản văn hóa”)(13). Hiện tượng này thể hiện từ cách ăn mặc, giao tiếp, ứng xử từ trong gia đình đến ngoài xã hội; là nguồn căn của lối sống ích kỷ, thực dụng, tham ô, tham nhũng; là nguyên nhân của hiện tượng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.

Bốn là, từ yêu cầu phát triển của bối cảnh mới. Bối cảnh mới đặt ra các yêu cầu:

Trước hết, phải phân biệt được các giá trị văn hóa và phản văn hóa, xác định được một định hướng đúng đắn, phù hợp cho sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam, yêu cầu này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm rõ khi chỉ ra “xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(14). Tức là phân biệt rõ các giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc để chủ động, tích cực vừa gìn giữ, phát huy, vừa phân biệt rõ đâu là các biểu hiện  văn hóa không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, phân biệt rõ đâu là các phản giá trị văn hóa. Nhận diện rõ để chủ động tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa phù hợp của nhân loại trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.

Thứ hai, những giá trị mới (cả về tinh thần và vật chất) mà văn hóa mang lại trong bối cảnh toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đó là những giá trị của sức mạnh nội sinh tạo nên “sức mạnh mềm” quốc gia - dân tộc, là những giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp văn hóa, của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa,... đặt ra yêu cầu phải có nhận thức đúng đắn, đầy đủ, toàn diện về phát triển văn hóa trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong mục tiêu tổng thể vì sự phát triển bền vững, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, từ đó có hành động kịp thời, quyết liệt để chấn hưng văn hóa, làm cho các giá trị văn hóa tốt đẹp của quốc gia - dân tộc được đề cao và phát huy mạnh mẽ hơn, làm cho văn hóa hưng thịnh là yêu cầu tất yếu.

Có thể khẳng định, đây là thời điểm không thể muộn hơn để định hướng con đường phát triển cho văn hóa - đó không chỉ là sự phù hợp với truyền thống văn hóa, là tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, mà còn phải đáp ứng các yêu cầu phát triển của thời đại mới, xứng đáng với tầm vóc, vị thế dân tộc. Quá trình chấn hưng văn hóa phải đồng bộ với chủ trương phát triển các ngành, lĩnh vực khác, phải song hành với thúc đẩy phát triển mới đạt mục tiêu đề ra để hướng tới một nền văn hóa hưng thịnh, góp phần vào sự phát triển toàn diện đất nước.

Bài viết “Quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ đặt ra yêu cầu về một cuộc chấn hưng văn hóa, mà còn đưa ra những định hướng quan trọng cho một cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc - đất nước(15) trong thời điểm hiện nay.


Xin chữ ngày xuân - nét đẹp văn hoá truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Một số vấn đề đặt ra và giải pháp thời gian tới

Từ yêu cầu phải có nhận thức đúng đắn, đầy đủ, toàn diện về nội hàm văn hóa, các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hóa trong tình hình mới hiện nay để thực hiện chấn hưng và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, cần làm rõ một số vấn đề cốt lõi:

Về mối quan hệ giữa văn hóa và dân tộc: Quan điểm xây dựng nền văn hóa mới với ba tính chất: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa; lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở từ Đề cương về văn hóa Việt Nam cần được tiếp tục kế thừa, phát triển, vận dụng phù hợp với tình hình hiện nay.

Văn hóa và Dân tộc luôn là hai mệnh đề song hành tồn tại trong suốt quá trình phát triển của đất nước. Những yếu kém, khuyết điểm về văn hóa, con người luôn là dấu hiệu cảnh báo hậu quả nguy hại và những phát triển của văn hóa, con người luôn là dấu hiệu của tương lai tốt đẹp đối với quá trình phát triển của đất nước, dân tộc, cho thấy tầm ảnh hưởng sâu sắc và to lớn của văn hóa đối với đất nước. Do đó, nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được khẳng định từ Đại hội VIII của Đảng đến nay cần tiếp tục được phát huy, phát triển. Cần phổ biến rộng rãi và nâng cao nhận thức văn hóa còn thì dân tộc còn(16) trong tất cả tầng lớp nhân dân.

Về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị - kinh tế - xã hội: Kế tục đường lối phát triển văn hóa được đề ra trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943: quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng nên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc)(17), mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)(18); kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, trong những nhiệm kỳ đại hội gần đây, Đảng ta luôn đề cao, coi văn hóa là một trong các trụ cột phát triển bền vững.

Trong thời gian gần đây, việc xây dựng văn hóa (đạo đức), con người được coi trọng, đặc biệt là trong Đảng, trong hệ thống chính trị. Văn hóa và con người văn hóa là yêu cầu đặt ra đối với tất cả các cấp, các ngành. Văn hóa chính trị, văn hóa công vụ, văn hóa công sở, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân... thường xuyên được đề cập, đề cao, coi trọng. Đạo đức, lối sống trở thành một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong đánh giá cán bộ, trong tiêu chí sử dụng cán bộ. Có thể thấy, văn hóa đã dần thấm đẫm vào từng lĩnh vực đời sống xã hội và thực hiện chức năng điều tiết xã hội.

Nhấn mạnh văn hóa trong bối cảnh mới còn bao hàm cả khía cạnh các giá trị tinh thần và giá trị vật chất. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, động lực phát triển, mà một số ngành công nghiệp văn hóa còn thực sự trở thành các ngành kinh tế mang lại lợi nhuận, giá trị kinh tế không nhỏ, đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước; phải “Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa”(19), hoàn thiện thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Do vậy, văn hóa cần được nhận thức toàn diện, thấu đáo, được đề cao, được tạo điều kiện thuận lợi để triển khai trong mối quan hệ tổng thể hài hòa với các lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.

Về mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam: Với vai trò vừa là chủ thể vừa là trung tâm, văn hóa và con người là hai thành tố quan trọng trong đời sống xã hội. Phát triển văn hóa, phát triển con người trở thành chủ trương xuyên suốt và nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong mọi thời kỳ. Ngay từ năm 1998, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã khẳng định “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI xác định “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị khóa XII khẳng định “tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển” và “soi đường cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng...”(20). Mục tiêu này cần được kiên trì và kiên định trong bất cứ hoàn cảnh nào; là một mục tiêu thành phần không tách rời trong tổng thể mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Để hiện thực hóa các mục tiêu, thực hiện chấn hưng văn hóa trong bối cảnh hiện nay, cần tập trung vào một số trọng tâm:

Chấn hưng văn hóa phải được khai mở từ trong nhận thức. Tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, khắc phục tình trạng “Chưa nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc và toàn diện về đường lối văn hóa của Đảng, nhất là trong thời kỳ mới hiện nay”(21). Nền văn hóa chúng ta đang chủ trương là nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” thể hiện ở kết hợp hài hòa sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và chắt lọc, duy trì, phát triển truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam. Tinh thần, khát vọng ấy cần được truyền tải thấm đẫm vào từng cá nhân, từng tập thể; cần được chuyển hóa thành tư duy chiến lược, thành hành động thực tiễn, đưa văn hóa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh mạnh mẽ để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra, thành động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác. Chấn hưng văn hóa chính là từ những nền tảng tinh thần và hành động thực tế đó và phải được thể hiện trong các lĩnh vực đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội.

Tóm lại, nâng cao nhận thức, đưa các yêu cầu cơ bản (tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển thời kỳ mới) của văn hóa Việt Nam hiện đại trở thành tinh thần cốt lõi của các chính sách văn hóa, của các nhiệm vụ phát triển văn hóa.

Chấn hưng văn hóa phải được thể hiện trong các quy định pháp luật, các quy tắc ứng xử xã hội. Phải kịp thời thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển văn hóa, xây dựng con người thành các chính sách, pháp luật cụ thể, khả thi. Từ các quy định pháp luật trong hoạt động kinh tế, xã hội đến các quy tắc ứng xử trong từng cơ quan, tổ chức, quy tắc ứng xử nơi công cộng... Các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các cơ quan hành chính phải có những quy định, quy chế hoạt động đáp ứng yêu cầu nền hành chính hiện đại, phục vụ nhân dân. Các doanh nhân phải có văn hóa kinh doanh, các doanh nghiệp phải tạo dựng được văn hóa doanh nghiệp. Các cơ sở giáo dục phải tạo dựng được văn hóa học đường, đạo đức nhà giáo. Các cơ sở y tế phải tạo dựng được đạo đức ngành y...

Tóm lại, các quy định pháp luật, các quy tắc ứng xử xã hội phải lấy văn hóa làm nền tảng.

Chấn hưng văn hóa phải được cụ thể hóa trong từng chính sách phát triển văn hóa, con người. Kế thừa chính sách văn hóa thể hiện trong các hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 xác đ?nh: ịnh: Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại (xem khoản 1, Điều 60); Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (xem khoản 2, Điều 60); Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân (xem khoản 3, Điều 60), Đại hội XIII của Đảng khẳng định phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.


Trao truyền các giá trị văn hóa cho thế hệ mai sau _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Đặc biệt, đối với các chính sách văn hóa cụ thể, như chính sách bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, chính sách đầu tư phát triển các thiết chế văn hóa cơ sở, chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, chính sách đầu tư phát triển thị trường các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, chính sách hội nhập văn hóa quốc tế,... phải bảo đảm các yêu cầu cơ bản, đó là tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trên cơ sở tôn trọng sự đa dạng và khác biệt của văn hóa các dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng trong thụ hưởng văn hóa, bảo đảm tính liên kết giữa chính sách văn hóa với các chính sách khác, bảo đảm tính phù hợp với tình hình đất nước, quy luật phát triển bền vững và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.

Tóm lại, các vấn đề cốt yếu trong phát triển văn hóa, con người phải được nhận thức đúng và được quan tâm, được đầu tư thích đáng.

Chấn hưng văn hóa phải được thể hiện trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình ban hành và thực thi chính sách kinh tế phải vừa tạo cảm hứng, bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm nhân văn, vừa ràng buộc trách nhiệm đối với các chủ thể, không để tư tưởng “duy kinh tế” lấn át. Chính sách kinh tế trong văn hóa phải chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật, phải có cơ chế khơi dậy, phát huy tiềm năng to lớn của các giá trị văn hóa để khai thác, chuyển hóa thành các giá trị kinh tế, đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa phải đi liền với hoàn thiện thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa.

Hiện nay, đời sống văn hóa của người dân không chỉ đơn thuần là đời sống vật chất và đời sống tinh thần đầy đủ, mà còn được hiểu đó là một cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc “không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng”(22), được sống trong môi trường xã hội lành mạnh. Và để xây tạo được môi trường lành mạnh đó, phải bao hàm các chính sách đúng đắn để xây tạo một môi trường giáo dục, môi trường y tế toàn dân, toàn diện; môi trường kinh tế xanh; môi trường sinh thái trong lành, vì con người, vì sự phát triển bền vững, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Tóm lại, phải lấy văn hóa làm điểm tựa cho các chính sách kinh tế - xã hội.

Chấn hưng văn hóa phải được thể hiện trong chính sách đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước. Chủ động gìn giữ và phát huy những giá trị chuẩn mực, điển hình của gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn giá trị truyền thống với giá trị thời đại; hiểu biết và tôn trọng giá trị văn hóa của các quốc gia khác,... làm cơ sở quan trọng kết hợp với tăng cường hoạt động giao lưu văn hóa để truyền bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài với tinh thần mang bản sắc văn hóa Việt Nam tham góp vào sự đa dạng, phong phú của văn hóa thế giới.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, công tác ngoại giao nói chung và ngoại giao văn hóa nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng, triết lý văn hóa khoan dung, đặc biệt triết lý ngoại giao “cây tre Việt Nam”(23) vừa mang đậm bản sắc dân tộc, thể hiện cốt cách, khí phách của một dân tộc bản lĩnh, can trường, kiên định, vừa mang tính mềm mại, uyển chuyển từ trong lịch sử của cha ông ta, được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ngày 14-12-2021. Đây cũng là định hướng đường lối ngoại giao quan trọng cần được phát huy, phát triển một cách linh hoạt, sáng tạo để ngoại giao Việt Nam góp phần vào sự phát triển, nâng cao vị thế, gia tăng tiềm lực, sức mạnh cho đất nước.