MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ MỚI
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, nhận thức mới, tư duy mới về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc của Việt Nam luôn được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Việc giải quyết tốt vấn đề dân tộc để phát huy vai trò của các dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của đất nước và vì lợi ích của từng dân tộc luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chính vì vậy từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thể hiện trong hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đảng ta xác định, vấn đề dân tộc “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta"... Việc xác định vị trí chiến lược lâu dài của công tác dân tộc chính là xuất phát từ đặc điểm của cộng đồng dân tộc ở nước ta. Bởi vì, vấn đề dân tộc vừa là vấn đề giai cấp, vừa là vấn đề quốc phòng - an ninh và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong điều kiện của một quốc gia đa tộc người, đa dạng về văn hóa như ở Việt Nam. Đó là một đặc điểm lớn, là đặc trưng, diện mạo lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh nguyên tắc “Đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc’’, Văn kiện Đại hội VI đến lần thứ XI, nguyên tắc này tiếp tục được khẳng định và bổ sung là: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau’’ (Đại hội VI, VII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’’ (Đại hội VIII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’ (Đại hội IX), “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’ (Đại hội X), “Bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” (Đại hội XI), “Bình đẳng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển” (Đại hội XII). Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí chiến lược của chính sách đoàn kết các dân tộc trên cơ sở “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước. Đó là cơ sở để thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, là động lực mạnh mẽ của tiến trình phát triển đất nước hiện nay.
Thứ hai, bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân biệt dân tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, dân trí cao hay thấp, là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và được bảo đảm bằng pháp luật. Điều 5 Hiến pháp xác định "các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc", "Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước". Theo đó, bình đẳng giữa các dân tộc thể hiện trước hết ở sự bảo đảm và tạo mọi điều kiện để các dân tộc có cơ hội phát triển ngang nhau. Thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để bảo đảm công bằng xã hội giữa các dân tộc, đây là một một quá trình lâu dài. Công bằng xã hội không có nghĩa là cào bằng, dàn đều, mà thể hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất và phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người, mọi cộng đồng, dân tộc có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực, tiềm năng, thế mạnh của mình.
Thứ ba, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Tư duy mới, vấn đề dân tộc được đặt trong xây dựng quan hệ giữa các dân tộc và con đường phát triển của các dân tộc; chính sách dân tộc được gắn với đường lối chính trị, với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Điều này thể hiện rõ mục tiêu trong chính sách dân tộc của Đảng ta là không ngừng nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của từng dân tộc; làm cho mỗi dân tộc được phát triển một cách toàn diện và bền vững; đồng thời, qua đó, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết giữa các dân tộc.
Thứ tư, đặc điểm, điều kiện của từng vùng, từng dân tộc. Đảng ta đặc biệt chú trọng và cụ thể hơn vấn đề dân tộc, nhấn mạnh, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với đặc điểm riêng của từng dân tộc và điều kiện, đặc điểm của từng vùng: “Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc thiểu số khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.”. xuất phát từ tình hình thực tế của đồng bào dân tộc Việt Nam cư trú xen kẽ nhau. Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Các dân tộc không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng. Vấn đề này luôn được Đảng ta quan tâm. Trên cơ sở đánh giá toàn diện về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và xuất phát từ yêu cầu của tình hình mới, từ thực tế vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở nước ta. Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế trong thực hiện chính sách về dân tộc. Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”. Việc áp dụng các chính sách cụ thể cho từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự đổi mới trong nhận thức của Đảng về sự công bằng trong phát triển giữa các dân tộc và các vùng, miền nói chung. Từ các tiêu chí phân chia vùng, miền (khu vực bước đầu phát triển, khu vực ổn định và khu vực khó khăn), Nhà nước đã có những chính sách đầu tư thích hợp cho mỗi nhóm đối tượng, theo đó, những khu vực khó khăn hơn sẽ nhận được những ưu đãi đặc biệt về quy mô đầu tư, để giúp cho những khu vực này nhanh chóng theo kịp trình độ phát triển chung của cả nước.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng triệt để vấn đề dân tộc, nhất là lợi dụng sự khác biệt của các dân tộc để chia rẽ, phá hoại, làm suy yếu các dân tộc và các lực lượng cách mạng, từng bước thực hiện âm mưu đen tối của chúng là nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, và buộc tất cả các dân tộc trên thế giới phải đi vào quỹ đạo, hoặc lệ thuộc vào chúng. Vì vậy, việc bảo vệ các dân tộc khỏi sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc là một nhiệm vụ cấp bách của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trước nguy cơ “diễn biến hoà bình” trước việc một số thế lực lợi dụng vai trò giúp đỡ, viện trợ, đặt cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công cuộc nội bộ của các nước, hiên nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh: Mỗi một người phải nhớ rằng có độc lập mới tự lập, có tự cường mới tự do. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác". Để đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, làm rõ tính đúng đắn của chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với chính sách dân tộc ở nước ta.
Để góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch lợi dụng chính sách dân tộc của Đảng để chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ đầu đổi mới, cụ thể như sau:
Một là, Nhân dân cả nước cùng đồng bào các dân tộc kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn
Ngay từ buổi đầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác Hồ và Đảng ta đã xác định mục tiêu cách mạng Việt Nam không chỉ dừng lại ở giải phóng các dân tộc thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến mà mục tiêu cao hơn là đưa các dân tộc Việt Nam đi lên CNXH, vượt qua nghèo nàn lạc hậu xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Thực tiễn cách mạng thế giới đã chứng minh chỉ có cách mạng XHCN mới có khả năng giải quyết tận gốc áp bức dân tộc, xác lập mối quan hệ giữa các dân tộc thực sự bình đẳng, đoàn kết giúp nhau xây dựng cuộc sống mới. Vận mệnh và tương lai của các dân tộc gắn liền với vận mệnh và tương lai của đất nước, cùng chung một Đảng lãnh đạo, một con đường đi lên CNXH.
Trong công cuộc xây dựng đất nước các dân tộc muốn tồn tại và phát triển, phải đi lên CNXH “ Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc”. Việc giải quyết VĐDT được đảm bảo trong xây dựng nhà nước Việt Nam XHCN chung của mọi thành phần dân tộc, điều đó được thể hiện trong Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992: “Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” nhà nước phải bảo đảm “ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Trong bối cảnh quốc tế trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định con đường đi lên CNXH là hết sức đúng đắn, thể hiện quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng mà Bác Hồ, Đảng và toàn dân ta đã lựa chọn Hai là, cách mạng XHCN ở vùng dân tộc là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trước hết là sự nghiệp cách mạng của đồng bào các dân tộc và người Kinh ở miền núi
Cách mạng XHCN ở miền núi và dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng XHCN ở nước ta là một bộ phận khăng khít của cách mạng XHCN ở nước ta, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích trực tiếp của đồng bào miền núi, vì lợi ích chung của Nhân dân cả nước.
Đảng ta chủ trương giải quyết VĐDT trên cơ sở sự đoàn kết, thống nhất, đảm bảo lợi ích của các dân tộc và phát huy vai trò trách nhiệm của các dân tộc trong tiến hành cách mạng XHCN trên vùng dân tộc, miền núi, thực hiện thắng lợi mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong đó phải đặc biệt coi trọng vai trò năng động, sáng tạo của các địa phương và cơ sở, quyền làm chủ của đồng bào các dân tộc.
Để phát huy thế mạnh của từng vùng, ở mỗi dân tộc, Đảng ta yêu cầu phải nắm vững phương châm: Trung ương và địa phương cùng làm. Nhà nước và Nhân dân cùng làm, khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương, cục bộ dân tộc, ỷ lại trên, coi nhẹ khả năng của đồng bào các dân tộc; phải kiên quyết chống tư tưởng chỉ khai thác tài nguyên, coi nhẹ đầu tư tái tạo, bồi đắp và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên dẫn tới cạn kiệt, môi trường bị tàn phá gây hậu quả lâu dài cho miền núi và cả nước. Trong công cuộc đổi mới giải quyết tốt VĐDT nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc cách mạng XHCN ở miền núi, trực tiếp phục vụ lợi ích của các dân tộc, gắn liền lợi ích của mỗi dân tộc với lợi ích của cả nước, đưa đồng bào các dân tộc tiến tới cuộc sống ấm no, văn minh, tiến bộ.
Ba là, quan điểm cơ bản trong giải quyết VĐDT là đảm bảo cho miền núi, dân tộc phát triển một cách toàn diện cả về chính trị, kinh tế văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng, nâng cao cuộc sống vật chất tinh thần của các dân tộc, giải quyết hài hòa lợi ích các dân tộc, giữa dân tộc với quốc gia
Quan điểm nhất quán của Đảng ta là phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết giữa các dân tộc, tạo cơ sở phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc và thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng XHCN trên phạm vi cả nước. Đảng ta chỉ rõ, nền tảng vững chắc của đoàn kết dân tộc là thực hiện trên thực tế nguyên tắc bình đẳng dân tộc, các dân tộc tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Về mọi mặt, trước hết là giúp nhau thực hiện quyền bình đẳng về kinh tế “ Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó, mặt khác phải có chính sách và tạo điều kiện để Nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế - văn hóa, từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, coi trọng và đào tạo cán bộ người dân tộc, tôn trọng và phát huy những phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc”.
Cùng với công cuộc đổi mới XHCN trên phạm vi cả nước, đối với miền núi và dân tộc Đảng ta chủ trương phát triển nhanh kinh tế - xã hội miền núi, phát triển kinh tế hàng hóa, thu hẹp tự cung tự cấp. Phát triển miền núi toàn diện Đảng ta luôn chăm lo bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc trong xây dựng nền văn hóa Việt
Bốn là, nắm vững chủ trương phát triển có kế hoạch nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đi lên CNXH, điều chỉnh lại quan hệ sản xuất ở miền núi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân, tôn trọng đặc điểm kinh tế xã hội và đặc điểm tự nhiên của các dân tộc trong quá trình thực hiện chính sách chung
Đảng ta yêu cầu toàn thể Cán bộ, Đảng viên phải nắm vững các quy luật cách mạng XHCN, vận dụng sáng tạo vào cuộc cách mạng nước ta. Đối với các dân tộc, trên cơ sở các quy luật cơ bản của cách mạng XHCN, phải xuất phát từ đặc điểm, trình độ kinh tế - văn hóa, cấu trúc xã hội, tâm lý và nếp sống, phong tục và tôn giáo để vận dụng cho phù hợp với lực lượng sản xuất của các dân tộc. Các dân tộc nước ta bước vào xây dựng CNXH, bên cạnh một bộ phận đã ở trình độ cao tương đương người Kinh ( Thái, Mường, Tày, Nùng, Khơ-Me, Hoa…) vẫn còn một bộ phận dân tộc đang ở trình độ thấp, thậm chí có dân tộc mới bước vào ngưỡng cửa của sự phân hóa giai cấp. Trong thời kỳ đầu xây dựng CNXH quan hệ sản xuất mới được xác lập thì tàn dư của xã hội cũ vẫn chưa cải tạo xong, trong xây dựng cuộc sống mới còn biểu hiện tư tưởng rập khuôn áp đặt, không phù hợp với trình độ của một bộ phận các dân tộc.
Nhận thức đầy đủ về quan điểm đổi mới của Đảng về VĐDT trong thời kỳ đổi mới, đòi hỏi phải nghiên cứu, quán triệt, tôn trọng quy luật phát triển riêng của mỗi dân tộc, gắn quy luật đặc thù với quy luật chung của cả nước, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với đặc thù của lực lượng sản xuất, có khả năng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Các dân tộc không còn sự chênh lệch về trình độ phát triển thì quy luật đặc thù và quy luật chung sẽ hòa nhập và cả nước đi lên CNXH theo một quy luật thống nhất. Đây là điều mà hiện nay chúng ta vẫn đang phấn đấu thực hiện, vươn tới mục tiêu đó, bên cạnh sự chủ động, tích cực sáng tạo của mỗi dân tộc, phải có sự giúp đỡ tương trợ của các dân tộc đã đạt trình độ phát triển cao hơn theo tinh thần bình đẳng cùng tiến bộ.
Trên cơ sở những chủ trương lớn ở trên Đảng ta đã đề ra các chính sách trong giải quyết VĐDT trong đó tập trung vào đổi mới chính sách kinh tế xã hội trên địa bàn miền núi dân tộc; phát triển giáo dục, y tế và đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng XHCN trên địa bàn miền núi dân tộc.
Với những quan điểm chủ trương đúng đắn về VĐDT và giải quyết VĐDT của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới đã tạo ra động lực to lớn, có tính bước ngoặt tạo cơ sở vật chất kỹ thuật để giải quyết VĐDT một cách đúng đắn, phát huy được truyền thống và cốt cách của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam gắn lợi ích dân tộc với lợi ích của quốc gia, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tạo ra sự đoàn kết thống nhất cao trong khối ĐĐK toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa GCCN, NDLD và đội ngũ trí thức do ĐCSVN lãnh đạo, tạo động lực cho sự nghiệp đổi mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét