Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2023

NỖ LỰC GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM

 NỖ LỰC GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện

Xóa đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt, quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng đất nước. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xóa đói giảm nghèo đã được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng qua nhiều thời kỳ, ngày càng sâu rộng, toàn diện hơn.

Giai đoạn 2011 - 2020, để triển khai các quan điểm, chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 và chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020, giai đoạn 2021 - 2025.

ttxvn-nuoibothoatngheoovinhlong

Mô hình nuôi bò thoát nghèo bền vững

Chính phủ đã tổ chức quán triệt, tuyên truyền, ban hành Chương trình hành động, thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020, Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025; chỉ đạo xây dựng, ban hành hệ thống khuôn khổ pháp lý triển khai thực hiện công tác giảm nghèo bền vững kịp thời, đầy đủ, đảm bảo tính khách quan và minh bạch như việc xây dựng các tiêu chí xác định đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn; tiêu chí hộ thoát nghèo, huyện, xã, thôn bản thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; hệ thống chỉ tiêu theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện. Đồng thời, Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo Trung ương rà soát, đề xuất sửa đổi cơ chế, chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững với sự tham gia của lãnh đạo 11 Bộ, ngành; phân công cụ thể các Bộ, ngành rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chính sách giảm nghèo trong phạm vi, lĩnh vực quản lý nhà nước; lập kế hoạch, lộ trình từng bước tích hợp, sửa đổi, bổ sung theo hướng tập trung chính sách, nguồn lực, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo.

Địa phương đã cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ giảm nghèo bền vững trong Nghị quyết của cấp ủy, Chương trình hành động của chính quyền từng giai đoạn 5 năm, hằng năm; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động thực hiện công tác giảm nghèo bền vững; tăng cường công tác quản lý nhà nước; hoàn thiện tổ chức bộ máy và cơ chế điều hành; chỉ đạo thực hiện tốt công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo, thôn nghèo, xã nghèo qua các giai đoạn; xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ giảm nghèo bền vững đặc thù của địa phương; tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo; xây dựng, nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả, kết hợp giải quyết tốt các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội; huy động tối đa nguồn lực thực hiện công tác giảm nghèo bền vững; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ theo dõi công tác giảm nghèo ở các cấp, nhất là cán bộ ở cấp xã.

hau-a-lenh-2712021

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các đoàn thể nhân dân đã xây dựng kế hoạch phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để giám sát và thực hiện công tác giảm nghèo. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia tổ chức Chương trình truyền hình, truyền thanh trực tiếp “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” để vận động nguồn lực ủng hộ người nghèo vào dịp ngày 17/10 hằng năm (Ngày quốc tế phòng chống đói nghèo và là Ngày vì người nghèo Việt Nam).

2. Kết quả công tác giảm nghèo giai đoạn 2016 - 2020

- Đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, huy động sự hưởng ứng tích cực của cả xã hội. Nhận thức của người nghèo dần thay đổi, cơ bản không còn ỷ lại, có nhiều tấm gương, điển hình thoát nghèo, tình nguyện xin ra khỏi danh sách hộ nghèo (44 hộ nghèo người Dao ở xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh; cụ bà Đỗ Thị Mơ, 84 tuổi ở xã Lương Sơn, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa; 470 hộ nghèo ở huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An…).

Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về giảm nghèo được Chính phủ ban hành khá đồng bộ, toàn diện để hỗ trợ cho người nghèo: đã ban hành các chính sách giảm nghèo đặc thù, ưu tiên đối với các đối tượng yếu thế, vùng đồng bào dân tộc, vùng đặc biệt khó khăn; từng bước giảm dần và bãi bỏ những chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện.

Đảng, Nhà nước quan tâm, bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện Chương trình giảm nghèo: Tổng nguồn lực đã được bố trí, huy động để thực hiện Chương trình khoảng 120 nghìn tỷ đồng; trong đó gồm nguồn vốn trung ương (chiếm khoảng 35%), vốn huy động xã hội hóa hỗ trợ an sinh xã hội và giảm nghèo của các địa phương (chiếm khoảng 41%), vốn ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” và các hoạt động an sinh xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp (chiếm khoảng 24%) (Giai đoạn 2016 - 2020, ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” Trung ương số tiền là 126,502 tỷ đồng; an sinh xã hội trên 2000 tỷ đồng; từ năm 2020 đến hết tháng 6 năm 2022, ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” 3.865 tỷ đồng, an sinh xã hội trên 15.448 tỷ đồng).

- Áp dụng chuẩn nghèo đa chiều: Việt Nam đã 08 lần ban hành chuẩn nghèo quốc gia theo mô hình tháp giảm nghèo, đáp ứng nhu cầu người nghèo từ thấp lên cao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước từng thời kỳ. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của Châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (6 chiều về việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin) dựa trên cách tiếp cận đảm bảo quyền con người, quyền công dân đặc biệt là quyền được đảm bảo an sinh xã hội của công dân theo Hiến pháp năm 2013 và các luật về việc làm, giáo dục, giáo dục nghề nghiệp, trẻ em, bảo hiểm y tế, nhà ở, thông tin,...; hướng tới mục tiêu hỗ trợ toàn diện, bao trùm người nghèo, người dân sinh sống trên địa bàn nghèo, giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần, được đáp ứng nhu cầu về điều kiện sống an toàn; tiếp cận, sử dụng hiệu quả các dịch vụ xã hội cơ bản; nâng cao năng lực và thích ứng với biến đổi khí hậu.

- Thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, nhất là người dân sinh sống trên địa bàn nghèo, vùng đặc biệt khó khăn chuyển biến, thu nhập của người nghèo tăng hơn 2 lần trong 5 năm vừa qua. Hơn 13 nghìn dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo hiệu quả với trên 2,2 triệu hộ hưởng lợi; 5.500 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài. - Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, liên kết vùng được ưu tiên đầu tư, - nhiều địa phương đã nỗ lực thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn để xây dựng vùng nông thôn mới. Có 32 huyện, 125 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; 125 xã và 1.298 thôn hoàn thành Chương trình 135; khoảng 21 nghìn công trình cơ sở hạ tầng được đầu tư.

- Phong trào thi đua: “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2016 - 2020 và Phong trào “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2016 - 2020 do Thủ tướng Chính phủ phát động được triển khai sâu rộng, Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức thực hiện phong trào thi đua, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường vươn lên thoát nghèo và huy động nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Phát hiện và nhân rộng các điển hình, mô hình giảm nghèo hiệu quả, sáng kiến giảm nghèo, giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo.

Công tác tổng kết đánh giá thực tiễn thực hiện công tác giảm nghèo được Chính phủ và các địa phương chú trọng, tập trung đổi mới tư duy, cách thức giảm nghèo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từng thời kỳ; phù hợp với thực trạng nghèo và đặc điểm vùng, miền.

Với những nỗ lực trên kết quả giảm nghèo đạt và vượt mục tiêu, chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao: Tỷ lệ hộ nghèo là 9,88% năm 2015 (năm đầu kỳ) giảm xuống còn 2,75% năm 2020 (năm cuối kỳ), trong 5 năm giảm bình quân 1,43%/năm, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao (giảm bình quân 1-1,5%/năm); năm 2021 giảm xuống còn 2,23%, dự kiến năm 2022 giảm khoảng 1-1,5% so với năm 2021; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,65%/năm, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao (giảm bình quân 4%/năm).

Thành quả trên được Nhân dân cả nước ghi nhận, cộng đồng quốc tế đánh giá đây là một trong những thành công nổi bật nhất, ý nghĩa nhân văn của Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.

3. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Tồn tại, hạn chế

- Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo, phát sinh nghèo và tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn còn cao (có nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%, tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm trên 61,28% tổng số hộ nghèo trong cả nước). Sự phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp dân cư có xu hướng gia tăng qua số liệu về chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 (20% dân số giàu nhất) và nhóm 1 (20% dân số nghèo nhất) năm 2014 là 9,7 lần tăng lên 10,2 lần vào năm 2019.

Chuẩn nghèo về thu nhập giai đoạn 2016 - 2020 chỉ bằng 45% mức sống tối thiểu tại thời điểm năm 2020, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm mức sống tối thiểu, còn thiếu sự đồng bộ giữa việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều với điều chỉnh chính sách phù hợp để hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Một số cơ chế, chính sách, chương trình giảm nghèo chưa hiệu quả, chưa phù hợp với đặc thù vùng, miền. Công tác rà soát, tích hợp văn bản chính sách giảm nghèo, chuyển đổi phương thức hỗ trợ từ “cho không” sang hỗ trợ có điều kiện còn chậm. Việc phát triển công nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp cho các huyện nghèo chưa được chú trọng, chưa kết nối sản xuất với thị trường; hiệu quả giải quyết đất ở, đất sản xuất, nhà ở cho người nghèo còn thấp. Chưa có chính sách đặc thù đối với hộ nghèo không có khả năng lao động; một số địa phương còn để xảy ra tình trạng trục lợi chính sách.

- Nguồn lực đầu tư cho công tác giảm nghèo chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, việc bố trí ngân sách địa phương chưa được quan tâm; hiệu quả đa dạng hóa, huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước còn thấp.

- Công tác tuyên truyền nhằm khơi dậy tinh thần tự lực vươn lên thoát nghèo của người dân chưa được chú trọng tại một số địa phương; vẫn còn tình trạng một bộ phận người dân có tâm lý trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng.

b) Nguyên nhân

Sự lãnh đạo, chỉ đạo có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa sâu sát; một số nơi chưa nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa chính trị, nhân văn của công tác giảm nghèo. Hiệu lực quản lý nhà nước còn hạn chế, nhất là ở cấp cơ sở. Nguồn lực chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn; phương thức giảm nghèo còn hạn chế. Thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra ảnh hưởng tiêu cực đến công tác giảm nghèo.

ĐẢM BẢO TỰ DO INTERNET Ở VIỆT NAM

Trong suốt quá trình chuyển mình từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sau 36 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu vực và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, ý chí tự lực, tự cường luôn là sức mạnh nội sinh cho đất nước đạt được những thành tựu kinh tế vô cùng ấn tượng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước suốt hơn 03 thập kỷ qua. Tuy nhiên, các lực lượng phản động, thù địch thường dùng luận điệu “phản biện xã hội”, đấu tranh vì “dân chủ, nhân quyền”, xây dựng “xã hội dân sự”, vấn đề chủ quyền, lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo, nhất là các hoạt động lợi dung các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet... để xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; kích động tư tưởng, thái độ thù địch; bôi nhọ hình ảnh, uy tín đất nước. Thực tế này càng đòi hỏi cần phải có cơ chế phối hợp quyết liệt, hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong việc nhận diện, giải thích, làm rõ, phản bác các thông tin sai lệch bảo vệ hình ảnh đất nước, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

I. Một số nét khái quát về quyền tự do ngôn luận, tự do Internet

1. Nhận thức chung

Khi nói về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet đó chính là quyền biểu đạt của từng con người trong xã hội, thể hiện trình độ văn minh, trình độ dân chủ của xã hội. Có thể thấy rằng, trong một xã hội mà không có tự do ngôn luận, không có tự do báo chí thì như thiếu “dưỡng khí ô xy” và do đó nền dân chủ không thể nuôi dưỡng, không được thể hiện.

Đến giữa thế kỷ XX, với kết quả của cuộc đấu tranh kiên trì, quyết liệt của công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới cùng với những tiến bộ văn hóa, văn minh nhân loại, quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận đã khẳng định và trở thành một giá trị chuẩn mực quốc tế. Điều 19, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217, ngày 10/12/1948 nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm; kể cả tự do bảo lưu ý kiến không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận, truyền bá thông tin và ý kiến bằng bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào và không giới hạn về biên giới”.

Ngày nay, quyền tự do báo chí, tư do ngôn luận không đơn thuần chỉ là quyền tự do in ấn, xuất bản các sản phẩm báo chí mà nó đã được mở rộng một cách toàn diện, bao gồm: Quyền tự do hoạt động nghề nghiệp của người làm báo; quyền tự do ra báo, thành lập các cơ quan truyền thông đại chúng; quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí; quyền tự do truyền phát thông tin, biểu đạt quan điểm và quyền được bảo vệ và đối xử công bằng trên các phương tiện truyền thông đại chúng, môi trường mạng Internet. Cần phải nói rằng, lâu nay rất nhiều người vì mục đích nào đó mà thường chỉ nhấn mạnh các quyền tự do làm báo, tự do ra báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí mà quên đi quyền được bảo vệ một cách công bằng, đạo đức trên báo báo chí, truyền thông. Hơn thế nữa, người ta cũng vô tình hay hữu ý mà không nhắc đến vai trò của pháp luật trong điều chỉnh hoạt động báo chí phục vụ cho mục đích chung, hài hòa và phúc lợi của nhân dân trong phạm vi xã hội dân chủ.

Như chúng ta đã biết, thế giới đang chứng kiến và thụ hưởng những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Internet ngày nay đã trở thành môi trường cung cấp, chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin cho mọi người dân. Internet còn là kho tàng tri thức vô giá của nhân loại được tích lũy cùng với sự phát triển, được lưu trữ và cung cấp cho cộng đồng. Ngày nay, hầu như các thông tin về mọi mặt đời sống xã hội đều được cập nhật hàng ngày, thậm chí hàng giờ trên mạng Internet để đáp ứng nhu cầu thông tin thường xuyên, thiết yếu của người dân. Intemet đang thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của từng con người, từng gia đình; hay rộng hơn là của xã hội và toàn thế giới. Nó đang trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với ngày càng nhiều người, nó tác động một cách trực tiếp làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá thể, qua đó tác động đến sự phát triển của toàn xã hội.

Khi lượng truy cập Internet trên toàn thế giới tăng, số lượng người dùng mạng xã hội cũng vậy. Mạng xã hội, đặc biệt là MXH Facebook được đánh giá là một công cụ hữu hiệu, mở ra rất nhiều cơ hội cho các quốc gia chủ động xây dựng và củng cố những giá trị cốt lõi của quốc gia nhằm mang lại những giá trị về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa nhân văn truyền thống. Hiện nay, các cơ quan đối ngoại của nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức... đã sử dụng MXH để cung cấp thông tin cho người dân trong và ngoài nước, bạn bè quốc tế.

Trong những năm gần đây, mạng xã hội đã trở nên phổ biến vào cuộc sống hàng ngày của hầu hết người Việt Nam cùng với tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và internet ngày càng tăng của Việt Nam. Nhờ có dân số trẻ, hiểu biết về kỹ thuật số và có tính kết nối cao, Việt Nam đã nằm trong số các quốc gia có số lượng người dùng mạng xã hội cao nhất trên toàn thế giới. Kể từ khi xuất hiện, việc sử dụng các mạng này đã được mở rộng từ việc giữ liên lạc với bạn bè và gia đình trở thành công cụ mạnh mẽ được các thương hiệu sử dụng để tiếp cận người tiêu dùng của họ cả trong nước và quốc tế. Các phương tiện truyền thông trên Internet như báo điện tử, website, blog, chip file, dữ liệu, thư điện tử, dịch vụ yahoo, MXH Facebook... tại Việt Nam hiện nay đã đóng góp vào sự phát triển trên các lĩnh vực, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và thế giới. Với sức lan tỏa nhanh của MXH, MXH đã trở thành kênh thông tin không thể thiếu trong đời sống xã hội hiện nay, nhất là giới trẻ.

Những năm gần đây, người dân có xu hướng sử dụng và tìm kiếm thông tin trên các website truyền thông xã hội nhiều hơn là ở website báo chí chính thống. Người Việt đứng đầu Đông Nam Á về xem video trực tuyến với 92%, trong đó, 70% người Việt xem video trên thiết bị điện thoại. Độc giả hiện nay dành 75% thời gian để xem video thay vì đọc bài viết.

Do độ tương tác cao, giao tiếp thuận lợi nên người dùng MXH có thể chia sẻ thông tin và tương tác trực tuyến với nhau một cách dễ dàng và nhanh chóng như: thích, bình luận, đăng ảnh, trò chuyện; sử dụng các ứng dụng, kết nối về một nội dung hay một trang web nào đó. Mặt khác, nhờ đa dạng về không gian và thời gian, người dùng có thể truy cập tham gia MXH ở bất kỳ đâu mà ở đó có dịch vụ internet với cách thức cũng đa dạng như: Điện thoại di động thông minh, máy tính bàn, máy tính xách tay, máy tính bảng, tính chủ động, linh hoạt rất cao. Vì vậy, thông tin trên MXH có khả năng phát tán nhanh và rộng. Tuy nhiên, MXH là trang thông tin mở, các hình ảnh, video, clip, bài viết, tin tức... được lưu hành và chia sẻ chính là nội dung của MXH và do chính các thành viên tự sáng tạo ra. Càng nhiều người sử dụng những thông tin trên MXH thì MXH càng trở thành kho lưu trữ nội dung khổng lồ, trong khi việc thực hiện giám sát, kiểm duyệt nội dung, chất lượng những thông tin trên MXH hiện nay còn hạn chế, hầu như phụ thuộc vào trình độ nhận thức, quan điểm của mỗi người tham gia chia sẻ với nhau.

Do tính đặc thù nên việc kiểm soát thông tin trên MXH là không dễ, các nguồn thông tin đúng, sai khó bề kiểm chứng; tốc độ phát tán rộng rãi, nhanh chóng thông qua rất nhiều hình thức khác nhau. Nếu một thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm cá nhân hay tổ chức, hình ảnh nhạy cảm, phản cảm... sẽ gây tác động tiêu cực đến nhiều người. MXH hiện đã trở thành môi trường tiềm năng, không gian lý tưởng cho các thế lực thù địch và đối tượng xấu lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế cuộc sống đi nhanh nhưng pháp luật lại đi sau khá nhiều, văn minh trên không gian mạng cũng mới chỉ ở khía cạnh cảnh tỉnh bước đầu sau những hệ lụy mà nó gây ra cho toàn thế giới. Chính sự lệch pha này làm nảy sinh nhiều vấn đề, nguy cơ. Giữ cho không gian mạng lành mạnh, không ô nhiễm là nhiệm vụ của cả người dùng và cơ quan quản lý.

Như vậy có thể thấy rằng, hầu hết các quốc gia đều nhận thức được xu thế phát triển và tầm quan trọng của Internet trong kỷ nguyên thông tin đối với sự phát triển xã hội, và đều có những chính sách phù hợp để khai thác thế mạnh của Internet phục vụ cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Về bản chất công nghệ, môi trường Internet là môi trường mở, cho phép người sử dụng được tự do cung cấp tìm kiếm và sử dụng thông tin. Vì vậy, tùy thuộc vào động cơ, mục đích và nhận thức của tổ chức, cá nhân sử dụng mà thông tin đưa lên Internet là tích cực, hoặc tiêu cực, hoặc thậm chí đi ngược lại lợi ích chính đáng của cộng đồng, xã hội.

Vấn đề cần trao đổi ở đây là khi nói đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet như vậy thì tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet có giới hạn không? Có tự do không giới hạn và có tự do tuyệt đối không? Vấn đề này cần được nhận thức thật đúng và thể hiện thật rõ. Đó là không có tự do ngôn luận vô hạn cũng không có tự do báo chí, tự do Internet không giới hạn, mà phải nằm trong khuôn khổ pháp luật, và nó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, trình độ phát triển của từng quốc gia. Cần phải khẳng định rằng, tự do báo chí, tư do ngôn luận, tự do Internet là thiêng liêng, là cần thiết cho cuộc sống, là một biểu hiện cho tiến bộ và một yếu tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nhưng tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do Internet chưa bao giờ và không bao giờ là tự do chung chung, tự do cho mọi người, tự do vô bờ bến. Ngược lại, tự do báo chí, tư do ngôn luận, tự do Internet bao giờ cũng là và chắc chắn là tự do cho ai, tự do vì mục đích gì.

Mặt khác, theo thực tế pháp lý ở tất cả các quốc gia trên thế giới, vấn đề có tính nguyên tắc là tự do luôn gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi luôn gắn liền với nghĩa vụ. Mối quan hệ phổ biến này nhằm mục tiêu chính đáng và khách quan là đảm bảo cho tự do của mỗi người không làm mất đi hay ảnh hưởng tiêu cực đến tự do của người khác và của cộng đồng.

Đây cũng chính là nguyên tắc căn bản mà Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc đã khẳng định mạnh mẽ. Sau khi xác quyết các quyền tự do và quyền con người nói chung, Điều 29 của Tuyên ngôn này khẳng định: “Khi thực hiện các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ chịu những hạn chế do luật định, nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Nói cách khác, quyền tự do nói chung, tự do báo chí, ngôn luận nói riêng của mỗi người là thiêng liêng, là quan trọng, nhưng không có nghĩa là vì những quyền đó mà người ta có thể làm gì cũng được. Vấn đề là con người sống trong một cộng đồng xã hội, vì thế, tự do của mỗi con người cụ thể không thể tách rời tự do của cả cộng đồng. Hơn thế nữa, chính sự tự do của mọi người, của cả cộng đồng là điều kiện đảm bảo cho tự do của mỗi người. Vì thế, những quyền tự do của mỗi người không thể không bị hạn chế bởi pháp luật nhằm bảo đảm cho tự do của những người khác, bảo đảm lợi ích chung cho cả cộng đồng. Cũng đơn giản như, muốn lưu thông được trên đường một cách thuận tiện, người ta không thể không tuân thủ luật giao thông.

Quyền con người ngày càng có tầm quan trọng trong quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam. Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet là những quyền cơ bản của con người đã được Việt Nam cam kết thực hiện theo những nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Hoạt động truyền thông, báo chí luôn luôn song hành cùng với quá trình phát triển đất nước; từng bước xây dựng và truyền tải rất nhiều thông tin hữu ích ở nhiều lĩnh vực khác nhau đến nhân dân. Trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy quyền con người, thông qua các kênh thông tin truyền thông, các giá trị xã hội, các chuẩn về quyền con người quốc tế và Việt Nam được phổ biến và nhắc muc đi nhắc lại cho mọi người cùng biết, thuyết phục và vận động mọi người cùng nhau tuân thủ để bảo đảm những lợi ích thiết yếu và hợp pháp cho từng cá nhân hay bất cứ tổ chức nào.

Là quốc gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt Nam đã sớm tham gia, ký kết các điều ước quốc tế về bảo đảm các quyền cơ bản của con người và quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 09/11/1946 đã hiến định tại Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam và tiếp tục được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

2. Nhận diện hoạt động lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do Internet chống phá Việt Nam

Ngày nay, bên cạnh những tác động tích cực nhiều mặt thúc đẩy sự phát triển xã hội, những tác động tiêu cực của thông tin sai trái, độc hại trên Internet ngày càng gia tăng phức tạp. Chính sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực viễn thông nói chung, lĩnh vực Internet nói riêng đã đóng vai trò quyết định trong việc hình thành và phát triển mạng Internet toàn cầu như ngày nay. Cũng như bất kỳ một thành tựu khoa học nào của nhân loại, khi càng được ứng dụng rộng rãi trong đời sống xã hội thì Internet sẽ càng dễ bị lợi dụng, sử dụng vào mục đích sai trái hoặc là mục tiêu của giới tội phạm. Cuộc sống con người ngày nay phụ thuộc nhiều vào Internet; điều này khiến cho các cá nhân, tổ chức và các quốc gia dễ bị tấn công qua các hệ thống thông tin cũng như các hình thức tương tự. Không phải ngẫu nhiên mà các chuyên gia máy tính đã nhận định “Thế kỷ XXI là thế kỷ của tội phạm mạng” và “Chiến tranh mạng đã là nguy cơ hiện hữu”. Khác với các hành vi vi phạm pháp luật truyền thống, hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực Internet xâm hại tới rất nhiều quan hệ xã hội, nhiều lĩnh vực khác nhau như: ngân hàng, quân sự, an ninh, thương mại hay lĩnh vực văn hóa, như: giả mạo trong thương mại điện tử, giả mạo trong thanh toán ngân hàng, phá hoại, các loại tấn công làm tê liệt các dịch vụ máy chủ, tấn công làm tắc nghẽn đường truyền, viruts, đánh cắp mật khẩu, đổi tên miền và địa chỉ IP, nghe lén thông tin trên môi trường mạng, thư điện tử mạo danh, thư điện tử vô danh, trang thông tin điện tử giả mạo, lấy cắp thông tin...

Trong lĩnh vực thông tin, báo chí, xuất bản trong thời gian qua đã có hàng trăm trang báo điện tử, hàng ngàn trang thông tin điện tử tổng hợp, hàng trăm ngàn trang blog của cá nhân xuất hiện trên Internet. Lợi dụng chính sách khuyến khích người dân tham gia không gian mở trên Internet để khai thác, chia sẻ thông tin đã xuất hiện rất nhiều hành vi vi phạm trên môi trường mạng; chủ yếu như: Đăng, phát nội dung không được phép; thông tin, hoạt động báo chí trái phép; thông tin sai sự thật; đăng phát thông tin vi phạm thuần phong mỹ tục Việt Nam; vi phạm quy định về quảng cáo; không thực hiện đúng quy định ghi trong giấy phép, thông tin nói xấu lãnh tụ, nói xấu chế độ, bôi nhọ nhân phẩm của tổ chức, cá nhân; đưa các xuất bản phẩm có nội dung trái với đường lối, quan điểm của Đảng, các xuất bản phẩm có nội dung vi phạm đã bị thu hồi lên mạng Internet... Sự bùng nổ của tin tức giả mạo (tin bịa đặt, sai sự thật) mang lại không ít phiền toái cho người sử dụng mạng xã hội trong những năm vừa qua. Tin tức giả mạo tràn ngập Facebook, Google, Twitter... đặc biệt liên quan đến các sự kiện lớn. Tại Việt Nam, số liệu thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng của Bkav cho thấy, 63% người dùng thường xuyên đọc được tin tức giả mạo trên Facebook, trong đó 40% là nạn nhân hằng ngày. Không chỉ khiến người đọc hoang mang, tin tức giả mạo còn tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội khi kẻ xấu cố tình đưa tin sai sự thật liên quan đến tình hình kinh tế, chính trị của đất nước.

Đối với lĩnh vực an ninh quốc gia, TTATXH của Việt Nam, hiện tội phạm mạng đã trở thành mối đe dọa hàng đầu như các hoạt động kích động, lôi kéo biểu tình, nói xấu Đảng và Nhà nước trên mạng, ngoài ra còn có truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, vi phạm bản quyền số... Tình hình mất an toàn thông tin số tiếp tục diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa đến việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh. Đặc biệt, trong diễn biến phức tạp của tình hình an ninh thế giới, khu vực hiện nay, bí mật thông tin là một nội dung quan trọng mà các nước, các cơ quan đặc biệt thường xuyên thu thập để phục vụ cho cạnh tranh trong hoạt động kinh tế, có lợi cho quan hệ đối ngoại, an ninh quốc phòng... Các thế lực thù địch và phản động đang ráo riết sử dụng tối đa các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội từ bên ngoài để tuyên truyền tâm lý, tạo dư luận trong nước cũng như ngoài nước nhằm chống phá Việt Nam. Chúng triệt để lợi dụng các tính năng ưu việt, hiệu quả của các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền, xuyên tạc, kích động quần chúng nhân dân hàng mua chuộc, lôi kéo, tập hợp lực lượng từ các phần tử dân tộc, tôn giáo cực đoan, đối tượng có tư tưởng hận thù, phần tử cơ hội, bất mãn, thoái hóa biến chất, một bộ phận quần chúng nhẹ dạ, cả tin... để hình thành tổ chức bí mật ở trong nước và nước ngoài nhằm phục vụ cho các hoạt động bạo loạn, lật đổ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Đáng chú ý, hoạt động phá hoại tư tưởng chủ yếu tập trung vào các thời điểm trước và trong khi diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của Việt Nam. Các hãng thông tấn báo chí nước ngoài như Đài Châu Á tự do (RFA), BBC Việt ngữ, tiếng nói Hoa Kỳ (VOA), Đài Phát thanh quốc tế Pháp (RFI)... thường là đối tượng chống phá Việt Nam dữ dội, quyết liệt và thường xuyên nhất, tập trung vu cáo Việt Nam xiết chặt tự do ngôn luận, tự do tư tưởng bằng cách cố súy cho một số đối tượng chống Đảng, Nhà nước (các vụ việc nổi cộm như vụ việc Cù Huy Hà Vũ trước đây, blogger Mẹ Nấm, thành viên của cái gọi là Hội Nhà báo Việt Nam độc lập...). Các phương tiện truyền thông này đã xuyên tạc tự do chính trị tại Việt Nam, bôi nhọ lực lượng hành pháp, tác động tới nhận định của các nước phương Tây về tình hình tự do, nhân quyền của Việt Nam, làm xấu đi quan hệ ngoại giao của Việt Nam với quốc tế.

Mới đây, cơ quan nghiên cứu của Nghị viện châu Âu công bố bản báo cáo về các hoạt động hỗ trợ những nhà hoạt động nhân quyền trên toàn thế giới; trong đó có những thông tin, nhận định thiếu khách quan, công bằng, dựa trên một số thông tin sai lệch, không có cơ sở, không phản ánh đúng thực tế về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Theo nội dung của bản báo cáo, Nghị viện châu Âu cho rằng, họ đã gặp nhiều giới hạn trong việc bảo vệ những nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam; cáo buộc Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, “đàn áp, bỏ tù người vô tội”; thậm chí, cho rằng Việt Nam là “chế độ đàn áp”. Trong khi đó, danh sách những “nạn nhân của chế độ” được liệt kê trong báo cáo này lại là những đối tượng chống phá cộm cán như: Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Tiến Trung hay gần đây nhất là Phạm Đoan Trang. Đây không phải là lần đầu Nghị viện châu Âu đưa ra những đánh giá, nhận định sai lệch, thiếu khách quan, thiếu thiện chí về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.

Có thể khẳng định, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước, và luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ và thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trong thực tiễn. Ở Việt Nam, tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, bởi bất cứ ai và vì bất cứ lý do gì, đều phải bị xét xử nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm sự thụ hưởng đầy đủ các quyền và tự do của mỗi người dân trong một xã hội an toàn, trật tự và công bằng. Không ai bị bắt giữ, xét xử vì thực hiện các quyền con người một cách chính đáng.

Đối với trường hợp như Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Tiến Trung hay Phạm Đoan Trang được nhắc đến trong báo cáo của Nghị viện Châu Âu là “tù nhân chính trị” thực chất là những đối tượng núp bóng dẫn chủ, nhân quyền, thường xuyên có các hoạt động chống phá, kích động bạo lực, lôi kéo, tập trung các đối tượng xấu để gây rối trật tự công cộng nhằm mục đích phá vỡ sự ổn định chính trị của đất nước, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là những hành vi vi phạm pháp luật, cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, hoàn toàn không phải hành động “đàn áp người đấu tranh” như một số nhận định chủ quan, phiến diện, một chiều, mang tính bao biện cho các sai phạm của những phần tử chống đối.

II. Nỗ lực, kết quả đảm bảo tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet ở Việt Nam

Nhân quyền là một lĩnh vực rộng, liên quan trực tiếp đến đời sống của con người, là tổng hợp của các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong đó, những quyền cơ bản, thiết yếu, thực tế nhất là quyền được sống, quyền được bình đẳng, quyền được phát triển trong một xã hội an toàn, quyền được học tập, quyền được lao động, quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận... Những năm qua, dù là đất nước đang phát triển, đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam luôn nỗ lực và đã đạt được những kết quả tích cực trong bảo vệ quyền con người, điển hình: Theo Báo cáo kinh tế - xã hội tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020; đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tại Việt Nam không có khủng bố, người dân được sinh sống và lao động trong mỗi trường an ninh, an toàn, ổn định... Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới năm 2022 của Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc quốc gia của Việt Nam xếp vị trí 77 (tăng 2 bậc so với năm 2021).

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi, đối thoại cởi mở với các cơ quan, tổ chức quốc tế về quyền con người trên tinh thần xây dựng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau; để các cơ quan, tổ chức quốc tế có những nhận định, đánh giá thực tiễn tình hình nhân quyền trong nước trên cơ sở công bằng, minh bạch, khách quan. Mặt khác, Việt Nam không bao giờ chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những luận điệu, đánh giá chủ quan, phiến diện, thiếu thiện chí, không có cơ sở, không phản ánh đúng tình hình thực tế tại Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam đang đang tiếp tục hướng tới mục tiêu đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, đồng thời chủ động ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn sử dụng vấn đề ”dân chủ, nhân quyền” để chóng phá cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu này, công tác thông tin, tuyên truyền có vai trò, vị trí rất quan trọng. Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác nhân quyền trong tình hình mới đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm của công tác nhân quyền, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân để mọi người nhận thức sâu sắc hơn về quan điểm của đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, nhận thức rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta là vì con người. Ngày 06/2/2018, trên cơ sở tổng kết đánh giá việc thực hiện Chỉ thị số 44, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 46-TB/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW của Ban Bí thư (Khóa X) về công tác nhân quyền trong tình hình mới. Quyết định số 42/QĐ-TTg ngày 12/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tuyên truyền thành tựu của Việt Nam về dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tôn giáo và Quyết định số 16/QĐ-TTg ngày 02/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về quyền con người ở Việt Nam là những văn bản chỉ đạo quan trọng vê công tác tuyên truyền về quyền con người trong tình hình mới.

1. Hành lang pháp lý

Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

Các quyền tự do ngôn luận, báo chí đã được khẳng định ngay trong Điều 10, Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) của Nhà nước Việt Nam, sau đó được tiếp tục ghi nhận trong các bản Hiến pháp sau này. Các quyền hiến định đó được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam.

Cụ thể, luật Báo chí có ghi rõ các điều khoản về bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí và Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí. Báo chí và nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức và cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Đồng thời, không ai được lạm dụng các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích Nhà nước, tập thể và công dân.

Công dân có quyền được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình trong nước và thế giới; tiếp xúc, cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không phải kiểm duyệt; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin, phát biểu ý kiến, góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại.

Luật cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong việc đăng, phát sóng các tác phẩm, ý kiến của công dân, trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời khiếu nại, tố cáo, ý kiến đóng góp...

Cần nhấn mạnh rằng, mỗi nước, do bản chất của chế độ chính trị-xã hội, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, điều kiện lịch sử đặc thù, tình hình cụ thể trong nước và quốc tế, mà định ra các luật của mình tương thích với nhu cầu thực tế phát triển của đất nước. Do vậy, luật báo chí của các quốc gia, các khu vực khác nhau sẽ không giống nhau và trong các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng khác biệt nhau. Chính vì vậy, nội hàm cụ thể của quyền tự do báo chí, xuất bản, thông tin cũng khác nhau ở các nước khác nhau.

Tuy nhiên, tất cả các quyền này, dù ở bất cứ quốc gia nào cũng không phải là các quyền tuyệt đối, không giới hạn, mà là các quyền có giới hạn. Giống như ở nhiều nước, luật Báo chí của Việt Nam cũng ghi rõ những điều không được thông tin trên báo chí.

Cụ thể, báo chí không được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ô, đồi trụy, tội ác; không được tiết lộ bí mật Nhà nước; không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Luật An ninh mạng năm 2016 quy định

Điều 3. Chính sách của Nhà nước về an ninh mạng

1. Ưu tiên bảo vệ an ninh mạng trong quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và đối ngoại.

2. Xây dựng không gian mạng lành mạnh, không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Điều 4. Nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng

1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

2. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc; phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng.

3. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng vê an ninh quốc gia với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng.

4. Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh, làm thất bại mọi hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; sẵn sàng ngăn chặn các nguy cơ đe dọa an ninh mạng

5. Triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia; áp dụng các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

6. Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được thẩm định, chứng nhận đủ điều kiện về an ninh mạng trước khi đưa vào vận hành, sử dụng; thường xuyên kiểm tra, giám sát về an ninh mạng trong quá trình sử dụng và kịp thời ứng phó, khắc phục sự có an ninh mạng.

7. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Để quyền tự do ngôn luận của người dân được thực thi nghiêm túc và toàn diện, các luật, văn bản dưới luật về tự do ngôn luận đã cụ thể hóa Hiến pháp, ngày càng được hoàn thiện để vừa bảo đảm quyền của công dân, vừa giúp quyền đó thực hiện trên cơ sở luật pháp. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Nghiêm cấm những hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phi báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội quy định cho tổ chức, cá nhân khi tham gia mạng xã hội có những ứng xử phù hợp.

2. Thực tiễn

Mọi người dân ở Việt Nam đều có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân thông qua Internet, nhất là qua mạng xã hội. Đó là những minh chứng sống động của việc Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ quyền phát triển của mỗi người dân, quyền được tự do thông tin, tự do Internet

- Những thành tích của Việt Nam về Internet trong những năm qua rất ấn tượng. Ngày 19/11/1997, Việt Nam chính thức hòa vào mạng lưới Internet toàn cầu. Theo thống kê, vào thời điểm đó, số người sử dụng mạng Internet ở Việt Nam chi hơn 200.000 người, đến năm 2002 có khoảng 3 triệu người sử dụng Intemet (khoảng 4% dân số cả nước thời điểm đó), năm 2007 là gần 20 triệu người, tăng thêm gần 7 lần (chiếm khoảng 24% dân số cả nước). Theo số liệu thống kê của Bộ TTTT, tính tới tháng 9/2022, số lượng người dùng Internet ở Việt Nam là khoảng 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020 - 2021 (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số). Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới Internet và tỉ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày lên tới 94%.

- Nhờ hạ tầng băng rộng đã được phủ sóng khắp cả nước, Internet giờ đây đã có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, biên giới, hải đảo. Internet ứng dụng mọi lĩnh vực của đời sống, từ giáo dục, y tế, giao thông… tới cả xây dựng chính phủ điện tử. Bộ TTTT đã thành lập Tổ công tác phát triển 5G với thành phần là lãnh đạo một số tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ, viễn thông và lãnh đạo các cơ quan, đơn vị của Bộ nhằm: (i) định hướng, hỗ trợ, dẫn dắt doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu, phát triển, làm chủ công nghệ 5G, sản xuất thiết bị đầu cuối 5G của Việt Nam, phát triển các nền tảng công nghệ số Make in Vietnam phục vụ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số; (ii) tạo điều kiện thuận lợi nhất, hỗ trợ giải quyết các yêu cầu, khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong hoạt động này. Hiện các thiết bị 5G do Viettel có khả năng nghiên cứu, sản xuất đã đầy đủ ở các phân lớp hệ thống mạng 5G (mạng lõi, mạng truyền dẫn, mạng truy cập) và đã được triển khai cung cấp thử nghiệm dịch vụ ở một số khu vực với tốc độ download 1.5 Gbps, upload 60 Mbps.

a) Chuyển đổi số theo hướng Chính phủ kiến tạo, tăng cường minh bạch thông tin, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân

Bộ TTTT đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ- CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước. Nghị định quy định các nội dung về: Quản lý, quản trị dữ liệu số; kết nối, chia sẻ dữ liệu số; sử dụng, khai thác dữ liệu số của cơ quan Nhà nước; cung cấp dữ liệu mở của cơ quan Nhà nước cho tổ chức, cá nhân; quyền và trách nhiệm trong kết nối, chia sẻ dữ liệu số của cơ quan Nhà nước. Đây là một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.

- Tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia nhằm giải quyết thách thức, tận dụng tối đa cơ hội, khai thác lợi thế đặc thù của Việt Nam để đi nhanh và đi đầu, tạo lợi thế cạnh tranh, thu hút nguồn lực, huy động sức mạnh toàn dân trong thực hiện chuyển đổi số, thay đổi thứ hạng quốc gia trên thế giới. Bộ TTTT đã triển khai nhiều biện pháp đồng bộ nhằm đảm bảo quyền con người trong bối cảnh đại dịch Covid-19, cụ thể: (1) triển khai thiết lập hạ tầng phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước về ứng phó với dịch bệnh Covid-19 trên phạm vi toàn quốc; (2) thiết lập hệ thống giao ban trực tuyến giữa Bộ Y tế và các bệnh viện có liên quan; kết nối nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh từ xa tới 100% huyện; phối hợp với các đơn vị của Bộ Y tế chỉ đạo, điều phối các doanh nghiệp viễn thông di động triển khai các biện pháp phòng chống diễn biến mới của dịch Covid-19 (3) đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục, tiếp cận y tế, tiếp cận các dịch vụ công, ta đã hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc dạy học trên các nền tảng công nghệ số như: Hỗ trợ miễn phí hạ tầng công nghệ thông tin; cung cấp miễn phí giải pháp đào tạo trực tuyến; miễn phí cước data di động; phát sóng miễn phí các chương trình dạy học qua truyền hình....; công bố gói hỗ trợ dịch vụ viễn thông lên tới gần 10.000 tỷ đồng;

- Thu hẹp khoảng cách thụ hưởng thông tin, tiếp cận internet giữa các vùng miền, Bộ TTTT đã và đang triển khai Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2025 theo hướng khắc phục tồn tại khoảng cách số giữa các vùng miền, hỗ trợ hiện thực các mục tiêu về chuyển đổi số Quốc gia, bảo đảm cung cấp dịch vụ truy nhập Intenet băng rộng, dịch vụ thông tin di động tại tất cả các địa bàn cấp thôn trên phạm vi cả nước.

- Phát huy lợi ích của Internet trong phục vụ người dân tiếp cận với các dịch vụ công, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021). Đây là văn bản chiến lược đánh dấu bước ngoặt quan trọng của công cuộc chuyển đổi số nói chung và phát triển Chính phủ số nói riêng của Việt Nam. Chiến lược lần đầu tiên đưa ra khái niệm Chính phủ số với nhiều điểm mới, đột phá về tầm nhìn chiến lược, tư tưởng chiến lược với các giải pháp đột phá là sử dụng nền tảng và định hướng mở để thúc đẩy phát triển chính phủ số nhằm giải quyết thách thức, tận dụng tối đa cơ hội, khai thác lợi thế đặc thù của Việt Nam để đi nhanh và đi đầu, tạo lợi thế cạnh tranh, thu hút nguồn lực, huy động sức mạnh toàn dân trong thực hiện chuyển đổi số, thay đổi thứ hạng quốc gia trên thế giới.

b) Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý báo chí, thông tin trên Internet

- Triển khai quyết liệt, đúng tiến độ Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 hướng tới một nền báo chí phát triển lành mạnh, nền tảng cho việc đổi mới mô hình và tổ chức, quản lý nền báo chí nhằm phát triển xã hội thông tin, cũng là yêu cầu cấp bách của thực tiễn báo chí trước sự thay đổi và phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghệ ở Việt Nam hiện nay.

- Tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử và Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản. 2 Nghị định được ban hành kịp thời, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, đáp ứng được yêu cầu thực tế đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin, giao dịch điện tử, báo chí, xuất bản, thông tin điện tử; tạo ra khung pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh, các quy định, chế tài xử phạt rõ ràng, minh bạch, góp phần quan trọng giúp cho lực lượng thanh tra chuyên ngành, các cơ quan liên quan trong việc bảo đảm trật tự, kỷ cương, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về Thông tin và Truyền thông đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

- Tiến hành sửa đổi, bổ sung Nghị định 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số - 27/2018/NĐ-CP quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, nhằm (1) tránh tình trạng bát nháo, báo hóa trang thông tin điện tử, mạng xã hội (MXH), (2) để quản lý tốt hơn các MXH và (3) quản lý tốt hơn dịch vụ thông tin xuyên biên giới.

Hiện tại, Bộ TTTT đang tiến hành việc sơ kết, đánh giá việc thực hiện Luật Báo chí, Luật Xuất bản, trên cơ sở đó, sẽ báo cáo Chính phủ đưa vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội trong giai đoạn 2023 - 2025 nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống quy phạm pháp luật, đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong hoạt động báo chí. Đồng thời, đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Truyền thông về quyền con người ở Việt Nam giai đoạn 2023 – 2028.

c) Đảm bảo an toàn thông tin, bảo mật thông tin cá nhân, bảo vệ quyền trẻ em trên môi trường mạng

- Trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 24/3/2020 về tặng cường phối hợp và triển khai đồng bộ các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh mạng.

Triển khai thực hiện Đề án “Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh, sáng tạo trên môi trường mạng giai đoạn 2020-2025” (Quyết định số 830/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Đây là Đề án giúp trẻ em biết tự bảo vệ mình khi tham gia môi trường mạng thông qua các chương trình, chiến dịch do các cơ quan, tổ chức triển khai, thực hiện; các tổ chức kinh tế - xã hội có đủ điều kiện về cơ chế, chính sách để phát triển các sản phẩm, dịch vụ giúp trẻ em tương tác sáng tạo trên không gian mạng, từng bước hình thành thị trường riêng về các sản phẩm, dịch vụ số cho trẻ em; các sự việc tiêu cực xảy ra khi trẻ em tương tác trên không gian mạng được dự báo, phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn kịp thời thông qua các biện pháp kỹ thuật.

- Ban hành Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội cho các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng mạng xã hội Việt Nam, hướng tới xây dựng môi trường mạng lành mạnh, an toàn tại Việt Nam. Việc ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên MXH đóng vai trò như một khuôn khổ thể chế “mềm”, để bổ sung cho các khung pháp lý chính thức của Nhà nước (Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ngày 17/6/2021).

- Chỉ đạo đơn vị chức năng thuộc Bộ TTTT (Cục ATTT) chủ động và quét trên không gian mạng Việt Nam, đánh giá, thống kê và tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, cảnh báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dùng biết và phòng tránh; tăng cường công tác giám sát, điều hành các nhà mạng phát hiện, ngăn chặn, hướng tới mục tiêu hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương về kỹ thuật điều hòa tỷ lệ thông tin tiêu cực trên không gian mạng.

Về an toàn, an ninh mạng: Việt Nam là một trong số không nhiều những quốc gia trên thế giới được Liên hợp quốc đánh giá cao về những kết quả tích cực trong xây dựng và phát triển chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Năm 2020, xếp hạng Chính phủ điện tử của Việt Nam là 86/193 (đứng thứ 6 trong ASEAN; chỉ số tổng hợp là 0,6667, cao hơn chỉ số trung bình của thế giới và khu vực, thuộc nhóm quốc gia ở mức Cao). Tính đến ngày 15/12/2021, cả nước đã có 70 bộ, ngành, địa phương hoàn thành việc đưa 100% dịch vụ công (DVC) đủ điều kiện lên cung cấp trực tuyến mức độ 4. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 4 trên tổng số DVC đủ điều kiện trung bình trên cả nước đạt 96%; tỷ lệ DVCTT mức độ 3,4 có phát sinh hồ sơ, đạt 36,47% (giảm 1,35% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, tỷ lệ này giảm do năm 2021 số lượng DVCTT mức 3, 4 tăng cao - tăng 15.868 dịch vụ so với năm 2020); tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến đạt 29,8% (tăng 6,82% so với cùng kỳ năm 2020). Tính đến tháng 12/2020, 22/22 bộ, cơ quan ngang bộ; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh (LGSP) và kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP), đạt tỷ lệ 100%. Tổng số hệ thống đã kết nối với NDXP là 220 hệ thống thông tin của 90 cơ quan, đơn vị; trong đó có 85 LGSP của bộ, ngành, địa phương; 05 cơ sở dữ liệu và 09 hệ thống thông tin có quy mô, phạm vi từ Trung ương đến địa phương. Tính đến ngày 22/11/2021, tổng số giao dịch thực hiện thông qua NDXP trong năm 2021 là 98.473.730. Hàng ngày có khoảng 270.000 giao dịch thực hiện thông qua NDXP.

d) Xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh đưa thông tin về cơ sở

Nhằm tăng cường hoạt động thông tin và nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, Bộ TTTT đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện: (1) Quyết định số 1168/QĐ-TTg ngày 24/7/2015 phê duyệt Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2020; (2) Quyết định số 467/QĐ-TTg ngày 25/4/2019 về tích hợp các chính sách hỗ trợ thông tin, tuyên truyền cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo kết hợp với các Chương trình Mục tiêu Quốc gia về thông tin, Chương trình Mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; (3) Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 20/01/2020 phê duyệt Đề án nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin cơ sở dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin tăng tiếp cận thông tin ở cơ sở; (4) Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/06/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 nhằm phổ cập và cá nhân hoá các dịch vụ (như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế...) tới từng người dân để phục vụ quyền của người dân tốt hơn; tạo ra cơ hội cho người dẫn ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tiếp cận dịch vụ trực tuyến một cách công bằng, bình đẳng và nhân văn rộng khắp “không ai bị bỏ lại phía sau”.

đ) Tăng cường công tác quản lý, điều hướng thông tin trên mạng

Thời gian qua, Bộ TTTT đã tăng cường quản lý nhà nước về thông tin trên mạng, quyết liệt đấu tranh ngăn chặn thông tin xấu, độc trên môi trường mạng Internet, làm việc yêu cầu với Facebook, Google loại bỏ thông tin xấu độc trên mạng xã hội có đông người dùng Việt Nam:

- Thực hiện nghiêm túc công tác thanh tra, xử phạt đối với các vi phạm của các cơ quan báo chí, các nhà xuất bản, chấn chỉnh tình trạng thông tin thiếu kiểm chứng, sai sự thật, buông lỏng quản lý trong hoạt động liên kết trong báo chí và xuất bản; xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng mạng xã hội đưa tin sai sự thật; yêu cầu các cơ quan chủ quản báo chí tự nâng cao trách nhiệm, phối hợp với Bộ Công an để điều tra, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của chức, công dân. 2N

- Căn cứ Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT quy định chi tiết về cung cấp thông tin công cộng qua biên giới, Bộ TTTT đã yêu cầu các trang thông tin điện tử và mạng xã hội nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam; duy trì cơ chế gỡ bỏ thông tin vi phạm quy định pháp luật Việt Nam (đặc biệt là các thông tin phản động, kích động, thù hằn dân tộc, bôi nhọ, mạo danh các lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam) với các doanh nghiệp viễn thông, Facebook, YouTube, Google và các dịch vụ mạng xã hội khác.

- Thành lập Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam (VAFC - ngày 12/01/2021) với chức năng, nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan chức năng thẩm định, công bố tin giả; đánh giá xu hướng thông tin chia sẻ, tương tác lớn để dán nhãn cảnh báo tin giả; tiếp nhận, phát hiện, thẩm định, gắn nhãn tin giả; công bố thông tin xác thực; hướng dẫn cách nhận biết, phòng tránh, đối phó với tin giả.

- Ngày 07/6/2022, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 1048/QĐ-BTTTT thành lập Tổ chuyên gia công tác TTĐN, có nhiệm vụ: Xây dựng báo cáo phát hiện thông tin sai lệch ảnh hưởng tín nhiệm, hình ảnh đất nước; Thống nhất lập luận, giải thích, làm rõ đối với thông tin sai lệch ảnh hưởng tín nhiệm, hình ảnh đất nước; Đề xuất phương án xử lý tình huống, vụ việc liên quan đến TTĐN; các biện pháp thông tin, truyền thông cần thiết để bảo vệ tín nhiệm, hình ảnh Việt Nam; đề nghị các bộ, ban, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ cung cấp thông tin giải thích, làm rõ; Phối hợp với các cơ quan liên quan xác định mức độ, vi phạm, đề xuất, kiến nghị chuyển hồ sơ đến cơ quan chức năng xử lý, giải tỏa thông tin, ổn định dư luận.

3. Ghi nhận của dư luận, báo chí quốc tế

Về phát triển và ứng dụng công nghệ, công nghệ số ngày càng là động lực mới cho đà phát triển bền vững cho kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việt Nam được dự báo trở thành cường quốc kỹ thuật số mới ở Đông Nam Á. Tổng giá trị giao dịch kỹ thuật số của Việt Nam được dự báo sẽ đạt 220 tỷ USD vào năm 2030, đứng thứ hai Đông Nam Á, sau Indonesia. Việt Nam đứng đầu trên tổng số 154 quốc gia về Chỉ số chấp nhận tiền điện tử toàn cầu (GCAI), vượt xa các nước phát triển như Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp, Đức... Điều này cho thấy người dân Việt Nam rất cởi mở với công nghệ blockchain Việt Nam đứng thứ 62 toàn cầu và đứng thứ 06 trong 10 nước ASEAN về chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo (AI) năm 2021. Sự tiến bộ của Việt Nam thông qua việc thăng hạng thể hiện sự đầu tư của Chính phủ vào công nghệ mới AI là hoàn toàn “đúng hướng” và hợp lý.

III. Về xếp hạng tự do Internet gần đây

Tổ chức Freedom House (trụ sở tại Mỹ) ngày 18/10 công bố báo cáo “Tự do Internet 2022”, trong đó xếp hạng Việt Nam là một trong 05 quốc gia kém tự do internet nhất thế giới.

Báo cáo cho rằng, Việt Nam không có tự do internet, chỉ đạt 22 điểm trên thang điểm 100, trong đó 12 điểm cho danh mục “trở ngại để truy cập”, 06 điểm cho “giới hạn nội dung” và 04 điểm cho “vi phạm quyền của người dùng”.

Năm nay, Việt Nam chỉ xếp trên Cuba (20 điểm), Iran (16), Myanmar (12) và Trung Quốc (10) về tự do internet. Theo Freedom House, đây là năm thứ ba liên tiếp Việt Nam bị điểm 22/100 và là năm thứ bảy liên tiếp Việt Nam không có tự do internet.

Bảng xếp hạng Tự do Internet 2022 dựa vào các tiêu chí: (i) hành vi ngăn chặn các trang web; (ii) sự tác nghiệp của dư luận viên ủng hộ Chính phủ; (iii) ban hành chính sách mới để kiểm duyệt, bắt bớ và giam cầm người dùng, sử dụng bạo lực đối với người dùng; (iv) các biện pháp tấn công kỹ thuật để đánh giá về tình hình tự do internet ở Việt Nam.

Theo báo cáo, quyền tự do internet vẫn bị hạn chế ở Việt Nam do Chính phủ thực thi các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt đối với môi trường trực tuyến của đất nước. Mặc dù chính quyền Việt Nam không làm gián đoạn kết nối hoặc ngăn chặn các máy chủ của Facebook như đã làm trước đây, nhưng nhà nước vẫn tiếp tục yêu cầu các công ty xóa, gỡ nội dung các bài đăng và tuyên các bản án hình sự hà khắc đối với những người phản biện trên mạng xã hội.

* Freedom House (FH) là ai?

Freedom House (https://freedomhouse.org) là một tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Mỹ và được chính phủ Mỹ tài trợ, với mục đích hoạt động là tiến hành nghiên cứu, ủng hộ dân chủ, tự do chính trị và nhân quyền. FH được thành lập vào tháng 10 năm 1941 với Wendell Willkie và Eleanor Roosevelt (phu nhân Tổng thống Mỹ khi đó) là chủ tịch đầu tiên.

Ngoài trụ sở chính đặt tại Thành phố New York, Mỹ, FH còn có 11 văn phòng khác trên thế giới tại Hungary, Jordan, Kazakhstan, Kyrgyzstan (2 văn phòng), Mexico, Tunisia, Ba Lan, Serbia, Nam Phi, Ukraina. Tổ chức này tuyên bố họ là “chất xúc tác cho làn sóng dân chủ” trên toàn cầu. Trong thập niên 1940, FH ủng hộ Kế hoạch phát xít hóa và việc thành lập phe trục, có tinh thần chủ nghĩa chống cộng cao. FH làm ra những tiêu chuẩn để đánh giá nhân quyền và tự do của công dân. Trong thập niên 1980 họ giúp đỡ phong trào Công đoàn cực đoan ở Ba Lan và phe đối lập dân chủ ở Philippines. Gần đây, FH can dự vào việc lật đổ chính quyền ở Serbia, Ukraina và Kyrgyzstan, Iraq, Syria.

* Cách đánh giá thiếu khách quan, khoa học của FH

Từ năm 1972, tổ chức này xuất bản một báo cáo thường niên mang tên “Freedom in the World” để chỉ về mức độ tự do dân chủ ở các quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế giới, theo cách đánh giá của FH tình trạng dân chủ và tự do được đánh giá trên thang điểm từ 1 (tự do nhất) đến 7 (ít tự do nhất). Các nơi có mức trung bình từ 1,0 đến 2,5 được coi là “tự do”. Nơi có giá trị từ 3,0 đến 5,5 được coi là “tự do trung bình” và nơi có giá trị từ 5,5 đến 7,0 được coi là “không có tự do”. Báo cáo năm 2020 đến nay thực hiện việc đánh giá, xếp hạng đối với 195 quốc gia và 15 vùng lãnh thổ.

Phương pháp tính của Báo cáo này dựa vào một phổ rất rộng các tiêu chí căn cứ trên Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948. Báo cáo dựa trên giả định rằng các tiêu chuẩn này có phạm vi áp dụng đối với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt vị trí địa lý, dân tộc, tôn giáo hay mức độ phát triển kinh tế.

Cách tính toán của FH: Mỗi quốc gia chỉ do 01 nhà phân tích chấm điểm trên mọi chỉ tiêu và viết báo cáo đánh giá quốc gia đó, gửi đến Ban đánh giá tại trụ sở chính ở Mỹ sẽ xem xét, so sánh ở cấp độ khu vực và so với kết quả các năm trước để quyết định công bố điểm số chính thức về 1 quốc gia. Do chỉ 01 nhà phân tích cho điểm và viết báo cáo, ban đánh giá chủ yếu ở Mỹ, tiếp cận báo cáo trên thế giới quan và giá trị Mỹ, báo cáo được đánh giá thiếu khách quan, khoa học và thiên kiến

FH đánh giá Việt Nam năm 2020, 2021, 2022 là không có tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do ngôn luận, internet.

Từ xuất phát điểm của FH và cách chấm điểm thiểu khoa học nêu trên, có thể nói, trong nhiều phần đánh giá FH đã đánh tráo bản chất các sai phạm về tự do ngôn luận trên mạng xã hội, biến đối tượng vi phạm pháp luật từ có sai phạm thành không sai phạm. Họ thậm chí tán dương cho lối ứng xử thiếu văn hóa, phát ngôn sai trái, lệch lạc trên mạng xã hội. Thực chất của âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm gây phần tâm trong cộng đồng xã hội, tạo ra sự hoài nghi về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước trong bảo đảm quyền tự do ngôn luận; từ đó, phủ nhận những thành tựu, nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người trên không gian mạng; hạ thấp vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế.

Không có nhận xét nào: