Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

Nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam qua nghiên cứu tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 

Nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam qua nghiên cứu tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” nhấn mạnh, đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Vì vậy, cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là cẩm nang lý luận, thực tiễn quý giá, định hướng phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, sức mạnh đoàn kết là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cương vị là người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn thấu hiểu tầm quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, luôn quán triệt trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(1). Các bài viết trong cuốn sách là sự hiện thực hóa tư tưởng ấy, thể hiện tầm tư duy lý luận sâu rộng, biện chứng, thực tiễn về đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như trách nhiệm của người đứng đầu Đảng, Nhà nước đối với nhân dân, với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, cuốn sách của Tổng Bí thư sẽ góp phần quan trọng nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cuốn sách của Tổng Bí thư nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh nội sinh, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước gắn liền với lịch sử đấu tranh giữ nước. Chính trong hoàn cảnh phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm cũng như chống chọi với thiên tai, hiểm họa đã hun đúc nên con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam một truyền thống vô cùng quý báu, đó là tinh thần đoàn kết. Chỉ có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh để có thể “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để dân tộc mãi trường tồn. Đoàn kết là một trong những bài học mang giá trị lịch sử, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá trình dựng nước, giữ nước; quá trình đấu tranh cách mạng và thực hiện công cuộc đổi mới đất nước của Đảng và dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”(2); “Không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”(3). Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, từ thực tiễn của Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam”(4). Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là một công việc hết sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể thành công khi quy tụ được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Nhờ tinh thần đoàn kết muôn người như một đã tạo thành sức mạnh vô địch, giúp chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành và bảo vệ vững chắc độc lập của Tổ quốc. Trong công cuộc xây dựng xã hội mới, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước, việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, để xây dựng đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, tạo tiền đề vững chắc cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới tiếp tục khẳng định mạnh mẽ đường lối đúng đắn của Đảng ta, trong đó có đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh bài học này trong những lần phát biểu của mình: Tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta theo tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”. Đây không chỉ là tinh thần đoàn kết, thống nhất mà còn là bài học về ý chí, hành động phải triệu người như một của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và nhân dân ta ở mọi miền Tổ quốc trong tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây cũng chính là sự phát triển nhận thức trong quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn, là tư duy và tầm nhìn của Đảng ta gần 94 năm qua: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu, là đường lối chiến lược của Đảng; là cội nguồn sức mạnh, là giá trị cốt lõi và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi thời kỳ”(5). Từ vai trò, tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc, Tổng Bí thư đã khái quát ngắn gọn quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, giúp cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ, hiểu thấu đáo tầm tư duy chiến lược của Đảng. Tổng Bí thư khẳng định, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy bản sắc cội nguồn văn hóa và truyền thống của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đổi mới, phát triển tư duy lý luận về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thể hiện trong văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng: “Từ chỗ, chỉ nói đoàn kết, rồi nói đại đoàn kết toàn dân, rồi phát triển lên thành đại đoàn kết toàn dân tộc là những cột mốc đánh dấu sự đổi mới và phát triển quan trọng về tư duy nhận thức và lý luận đối với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta, theo chiều hướng ngày càng mở rộng về biên độ, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ còn những “xơ cứng” đến ngày càng cởi mở hơn”(6). Tổng Bí thư cũng khẳng định, điểm tương đồng để quy tụ, khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chính là: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc làm điểm tương đồng”(7). Đây là mục tiêu lớn nhất, cũng là lợi ích chung lớn nhất của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; của mọi người dân, của toàn dân tộc. Chính nhờ điểm tương đồng này đã và sẽ tiếp tục động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân, huy động được mọi nguồn lực, tranh thủ mọi thời cơ, sự đóng góp của nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổng Bí thư cho rằng, điểm tương đồng này nếu biết khơi dậy đúng cách sẽ có sức cuốn hút, lay động lòng người, là lời hiệu triệu toàn dân, nhân lên lòng tự hào, tự tôn, ý chí của cả dân tộc. Đây cũng chính là định hướng cho việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm thu hút, tập hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội trong khối đoàn kết thống nhất của toàn dân tộc. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung của đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết”(8), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm rõ nội hàm của đại đoàn kết toàn dân tộc: “Nền tảng vững chắc của của đại đoàn kết dân tộc là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta; là sự đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau; giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới”(9). Như vậy, đại đoàn kết toàn dân tộc là tổng hòa của các mối quan hệ đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, giới, thành phần kinh tế, các vùng, miền; giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, trên nền tảng của liên minh công nhân - nông dân - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; là đoàn kết với bạn bè quốc tế. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Với nội dung toàn diện ấy, những kết quả trong xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam thời gian qua đã giúp chúng ta vững vàng vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn do tác động của mặt trái toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, nhờ có tinh thần đoàn kết, cùng ý chí, quyết tâm cao, chúng ta không những đã vượt qua đại dịch mà còn đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội được bạn bè quốc tế ghi nhận. “Trong gian khó, tinh thần yêu nước, nghĩa đồng bào, truyền thống “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy và nâng lên một tầm cao mới”(10). Tổng Bí thư nhấn mạnh, việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội là nòng cốt. Tổng Bí thư đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam,... phải quán triệt tư tưởng “dân là gốc”, lấy đó làm nền tảng cốt lõi cho mọi hoạt động, ở tất cả các cấp. Cuốn sách đã nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là các cán bộ trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội phải lấy “an dân làm cốt, lấy lợi ích của nhân dân làm trung tâm, xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sự đồng thuận của nhân dân”(11), sự chung sức, đồng lòng của toàn dân, từ đó góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển, văn minh và vững mạnh. Để tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư đã nêu ra những giải pháp cơ bản mang tính hệ thống. Đó là: Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng làm hạt nhân cho đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn coi việc giữ gìn đoàn kết thống nhất trên cơ sở đường lối chính trị và các nguyên tắc xây dựng Đảng là sinh mệnh của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, gây mất đoàn kết trong Đảng; “đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng”(12). Đây là điều kiện tiên quyết để quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân, bởi chỉ có một Đảng trong sạch, vững mạnh thì nhân dân mới thật sự tin tưởng, đoàn kết, ủng hộ, phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp chung dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bản thân Tổng Bí thư là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, một nhà lãnh đạo gần dân, trọng dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Hình ảnh dung dị, sự quan tâm, tình cảm yêu thương, đồng cảm của người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước ta với các tầng lớp nhân dân đã để lại ấn tượng sâu sắc, làm lay động lòng người; có tác dụng to lớn cổ vũ mọi giai tầng luôn nêu cao tinh thần yêu nước, tham gia tích cực vào các phong trào thi đua, các cuộc vận động; phát huy mọi nguồn lực, khả năng sáng tạo, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn, với xu thế của thời đại, với nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân. Tổng Bí thư đánh giá cao về vị trí, vai trò của các giai tầng, các cá nhân tiêu biểu trong các giới đồng bào, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài,. Đây là nguồn lực to lớn, tạo thành sức mạnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật phải hướng vào khơi dậy, phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi người Việt Nam; động viên nhân dân phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Những quan điểm của Tổng Bí thư về xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài là những định hướng quan trọng cho việc xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật, nhằm củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Với vai trò quan trọng trong vận động, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Tổng Bí thư yêu cầu Mặt trận Tổ quốc phải phát huy vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; đi sâu, đi sát vào các tầng lớp nhân dân để nắm được những nhu cầu chính đáng của họ, từ đó thực hiện tốt vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tạo môi trường thuận lợi để nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, chủ thể, nguồn lực, động lực chủ yếu, là mục tiêu của đại đoàn kết toàn dân tộc trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng có năng lực, uy tín, tâm huyết, trách nhiệm, hết lòng vì công việc chung… Cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tài liệu quý về xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Cuốn sách giúp cho cán bộ trong hệ thống chính trị, đảng viên và nhân dân hiểu rõ, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh nội sinh, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cuốn sách đặc biệt có ý nghĩa đối với lực lượng Công an nhân dân Việt Nam bởi thực tế đã chỉ rõ, thành công trong thực hiện sứ mệnh bảo đảm an ninh, trật tự của lực lượng công an bắt nguồn từ sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức. Đoàn kết, thống nhất là phẩm chất, đồng thời còn là nét đặc sắc trong bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của Công an nhân dân Việt Nam, là sức mạnh nội sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Hiện nay, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của nước ta đang diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, trong đó có Công an nhân dân Việt Nam. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải hết sức quan tâm xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, của Bộ Chính trị khóa XIII. Muốn vậy, điều quan trọng hàng đầu là phải giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Công an nhân dân Việt Nam, mà cốt lõi là sự đoàn kết thống nhất của tổ chức đảng trong công an. Đây được xem là một vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam./. ------

Không có nhận xét nào: