Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2024

Kiểm soát và xử lý tin giả ở Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn từ cách tiếp cận thể chế

 

Kiểm soát và xử lý tin giả ở Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn từ cách tiếp cận thể chế

 “Tin giả” đã và đang là một vấn nạn lớn của xã hội hiện đại, sự tồn tại và lây lan của tin giả gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội. Thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp thiết thực nhằm thiết lập phương thức xử lý, kiểm soát tin giả phù hợp, khoa học, hiệu quả, trong đó, cần chú trọng hơn nữa nhiệm vụ thể chế hóa các cơ chế, quy định chính thức, góp phần xây dựng và duy trì môi trường thông tin lành mạnh, tích cực.

Thực trạng vấn đề tin giả ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quá trình chuyển đổi số và sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại nhiều thuận lợi, cơ hội, song cũng đặt ra nhiều rủi ro, thách thức đối với đời sống xã hội, thì một trong những nguy cơ tiềm ẩn nhiều yếu tố tiêu cực chính là “tin giả” (fake news). Tin giả được hiểu cơ bản là hệ thống những tin tức, câu chuyện không có thật, có yếu tố bị xuyên tạc, gán ghép và nội dung bị biến đổi theo ý đồ chủ quan của người chuyển tải… dưới nhiều hình thức, như thông tin xuyên tạc, bị bóp méo, bịa đặt, hình ảnh và đoạn phim bị cắt ghép, làm lệch bối cảnh, chuyển tải nội dung sai sự thật... Tin giả được chia làm hai loại chính: Thông tin hoàn toàn không chính xác được cố tình đăng tải, lan truyền và thông tin “có thể” có một phần sự thật nhưng không hoàn toàn chính xác (do người tạo lập không kiểm chứng được toàn bộ sự thật trước khi chia sẻ hoặc cố tình phóng đại sự việc). Trong bối cảnh bùng nổ truyền thông, nhất là truyền thông xã hội, tin giả từ chỗ là một nguy cơ, hiện tượng mang ý nghĩa tiêu cực, dần trở thành vấn nạn nghiêm trọng, hiện hữu ngày càng phổ biến hơn và để lại nhiều hệ lụy lớn, sâu sắc đối với đời sống xã hội. Hiện nay, sự phát triển không ngừng của các nền tảng công nghệ thông tin và các ứng dụng trên mạng internet ngày càng mở rộng không gian mới (được gọi là “không gian mạng”), khiến các hoạt động thông tin, tuyên truyền và định hướng dư luận xã hội là một trong những lĩnh vực đầu tiên phải chịu sự tác động trực tiếp.

Việt Nam là quốc gia đang phát triển, tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại thông minh và các phương tiện truyền thông xã hội thuộc nhóm cao trên thế giới, do đó, xu hướng đọc tin trên không gian mạng của công chúng ngày càng gia tăng, khiến vấn nạn tin giả có nhiều điều kiện để hoành hành trong thời gian lâu dài. Hiện nay, có khoảng 77 triệu người Việt Nam đang sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội (chiếm 97,8% dân số từ 13 tuổi trở lên); lượng người dùng cũng có xu hướng tăng (năm 2022 tăng 6,9% so với năm 2021) cho thấy tiềm năng, phạm vi ảnh hưởng to lớn của các phương tiện truyền thông xã hội, ngày càng có sự chiếm lĩnh không gian thông tin. Nhìn chung, những loại tin giả ở Việt Nam thường tập trung vào các vấn đề sau đây:

Thứ nhất, phần lớn các nội dung tin giả đều hướng đến âm mưu xuyên tạc sai sự thật về tình hình, thực trạng quản lý, phát triển kinh tế - xã hội, như tung tin sai lệch về tình hình dịch bệnh COVID-19, về chính sách phát triển đô thị, xây dựng dự án, giải tỏa mặt bằng, công tác điều động, bổ nhiệm cán bộ,… hòng lôi kéo, dụ dỗ, kích động những người thiếu hiểu biết, thiếu thông tin thực hiện các hành động biểu tình, đòi yêu sách, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã  hội, đến lòng tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với chính quyền. Thâm độc hơn, chúng còn thông tin ra ngoài dư luận quốc tế, tạo hình ảnh một đất nước méo mó, xấu xí, luôn có nhiều nổi cộm, là “điểm nóng” trong các vấn đề về tự do, dân chủ, nhân quyền, phân hóa giàu - nghèo… hướng tới đối tượng người xem là một bộ phận công chúng quốc tế chưa có hiểu biết nhiều về nước Việt Nam.

Thứ hai, mặc dù công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt được những kết quả tích cực, góp phần nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước và củng cố niềm tin trong nhân dân; tuy nhiên, nhiều đối tượng lại cố tình xuyên tạc việc xử lý cán bộ sai phạm, xâm hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc chỉ là tình trạng “đấu đá nội bộ”, tranh giành quyền lực trong Đảng. Bên cạnh đó, chúng thường tạo lập, xuất bản, lan truyền các bài viết, bài phân tích, nói chuyện trên các nền tảng mạng xã hội bên ngoài hòng đưa ra những nhận định, đánh giá mang tính chất xuyên tạc, sai lệch bản chất vụ việc, sự kiện, vấn đề còn hạn chế, bất cập trong nước để ra sức lợi dụng, hướng lái thông tin nhằm mục đích gây phương hại đến lợi ích, uy tín của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, phủ nhận những thành tựu trong công tác cán bộ thời gian qua.

Thứ ba, nội dung các tin giả thường xuyên liên quan đến công tác cán bộ và có mưu đồ xuyên tạc lý lịch, đời tư đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành, địa phương; trong đó, tập trung vào việc bịa đặt lai lịch, sự nghiệp, gia đình của đội ngũ cán bộ cấp cao trong hệ thống chính trị nước ta; đồng thời, xây dựng và lan truyền những thông tin thất thiệt về công tác cán bộ, quy hoạch, điều động, sắp xếp, bố trí nhân lực trong hệ thống chính trị,… hòng tạo dư luận để gia tăng hiềm khích, kích động, phá vỡ khối đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân. Với việc lợi dụng thành tựu của khoa học - công nghệ, các thế lực thù địch, phản động cố tình cắt ghép, tạo ra các video, những hình ảnh không đúng sự thật, thâm độc hơn, chúng còn tách các bài nói, bài phát biểu của các cán bộ lãnh đạo ra khỏi bối cảnh cụ thể để xuyên tạc, bóp méo thông điệp gốc.

Thứ tư, các thế lực thù địch, phản động còn dùng thủ đoạn phổ biến là tạo lập, xây dựng các tài khoản cá nhân trên các phương tiện truyền thông xã hội mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước, người đứng đầu chính quyền các cấp, người nổi tiếng…, đồng thời, chỉnh sửa các thông số kỹ thuật của tập tin thời gian để đăng tải tin giả, tin sai sự thật nhằm dẫn dắt dư luận; lợi dụng các sự kiện “nóng”, các vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội để tạo dựng thông tin giả mạo, đánh lừa dư luận. Bên cạnh đó, xuất hiện hiện tượng nhiều đối tượng có động cơ vụ lợi kinh tế, thực hiện các hành vi tạo dựng tin giả, phát tán trên không gian mạng, nhất là các phương tiện truyền thông xã hội để thu hút người dùng tương tác nhằm thu về lợi ích từ việc bán hàng, ủng hộ, tài trợ bằng tiền, lợi ích vật chất... gây bức xúc, hoang mang dư luận. Mặt khác, tình trạng tràn lan các video có nội dung nhảm nhí, giật gân trên các phương tiện truyền thông xã hội nhằm lôi kéo người xem để kiếm tiền ngày càng có xu hướng tăng lên. Thậm chí, một số đối tượng tìm mọi cách để nổi tiếng trên không gian mạng, kể cả việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, sản xuất các nội dung phản cảm, thiếu tính giáo dục, giả mạo thông tin, kích động bạo lực, bôi nhọ, xuyên tạc chính quyền...

Tất cả những loại hình, nội dung tin giả trên, dù xuất hiện theo phương thức và phát đi từ nguồn nào, cũng đều gây ra ảnh hưởng tiêu cực, để lại những hệ lụy lớn đối với sự phát triển của đất nước nói chung và của các địa phương nói riêng; do đó, cần chủ động nhận diện, phát hiện, kiểm soát và xử lý, cũng như giảm thiểu tác hại của chúng. Đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hình nhiều chủ trương, chính sách nhằm nhanh chóng phát hiện, xử lý, ngăn chặn những thông tin sai trái, xấu, độc, có nguy hại cho uy tín của hệ thống chính trị(6); đồng thời, chú trọng xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ chế pháp lý để kiểm soát, xử lý tin giả trong môi trường các phương tiện truyền thông xã hội và bùng nổ thông tin thông qua nhiều thiết chế chính thức của Nhà nước, như Bộ Thông tin và Truyền thông (cụ thể là Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam thuộc Cục Phát thanh - Truyền hình và Thông tin điện tử), Bộ Công an, Thanh tra Nhà nước và thanh tra của các địa phương,... Nhìn chung, mỗi cơ quan, đơn vị đều có chức năng, thẩm quyền khác nhau trong việc phát hiện, kiểm soát và xử lý tin giả. Về vấn đề này, Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin, báo chí, internet, xuất bản; tăng cường năng lực quản lý không gian mạng. Xây dựng các cơ quan báo chí, tổ hợp truyền thông chủ lực đủ mạnh để thực hiện tốt chức năng thông tin, tuyên truyền thiết yếu, làm chủ mặt trận thông tin”(7).

Tuy vậy, chính từ đặc thù trong công tác quản lý thông tin cũng như nhiều đặc điểm khác về tâm lý số đông, văn hóa, tính cách... con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, ít nhiều tạo thêm nhiều cơ hội cho tin giả hình thành và lan truyền với tốc độ nhanh chóng. Do vậy, nhiệm vụ cấp thiết trước mắt là chủ động xây dựng, cải thiện, nâng cao chất lượng hệ thống các cơ chế, giải pháp nhằm kiểm soát, xử lý và giảm thiểu tác hại của tin giả một cách có hiệu quả trên tinh thần “tăng cường quản lý và phát triển các loại hình thông tin, truyền thông trên internet. Kiên quyết loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”(8).

Công an huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ tống đạt quyết định, xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân về hành vi “Lợi dụng phương tiện truyền thông xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức” trên facebook_Ảnh: TTXVN

Những khó khăn, thách thức

Một là, tình trạng phát tán tin giả, tin sai sự thật, hình ảnh phản cảm, độc hại trên các phương tiện truyền thông xã hội trong nước và nước ngoài đang ở mức đáng báo động và có diễn biến phức tạp, theo chiều hướng gia tăng, trong khi công tác đấu tranh, kiểm soát, quản lý thông tin, truyền thông, các hành vi đưa tin vẫn chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, khoa học, tính hiệu quả chưa cao. Hơn nữa, một bộ phận người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội có tâm lý cho rằng, khi cung cấp, phát tán thông tin trên các nền tảng phương tiện truyền thông xã hội của nước ngoài sẽ khó bị phát hiện danh tính, có suy nghĩ “vô danh nên vô trách nhiệm”, không bị xử lý, dẫn tới việc tự do phát ngôn và không để ý đến hậu quả.

Hai là, người dân hiện khó có căn cứ, cơ sở để xác định đâu là “tin thật” nếu cơ quan chức năng không kịp thời xác nhận, do đó, tin giả dễ dàng được phát tán với số lượng theo cấp số nhân, nhất là về những vấn đề “nóng”, thời sự, được nhiều người quan tâm... Mặt khác, dù số lượng các trang mạng xã hội trong nước được cấp phép khá lớn, nhưng chưa phát huy hiệu quả thực tế, lượng người sử dụng cũng như tính năng tương tác, sự thuận tiện còn thấp; mức độ tác động, ảnh hưởng đến dư luận xã hội hạn chế; phạm vi cung cấp nội dung hẹp, theo từng lĩnh vực chuyên môn cụ thể nên khó thu hút được người sử dụng. Trong khi đó, các phương tiện truyền thông xã hội nước ngoài xuyên biên giới với nhiều tính năng được cập nhật liên tục, phù hợp với nhu cầu người sử dụng, có những tác động lớn đến xã hội. Chính vì chưa xây dựng được “hệ sinh thái số” đủ mạnh, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân, phụ thuộc vào bên ngoài, nên dẫn tới những bất cập, khó khăn trong thực hiện công tác quản lý, đấu tranh với những vi phạm của người sử dụng nhằm bảo đảm môi trường không gian mạng lành mạnh và hạn chế những tác động tiêu cực.

Ba là, hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh, xử lý hành vi tạo lập và lan truyền tin giả. Do đó, có nhiều hành vi, trường hợp tạo lập, lan truyền tin giả trên không gian mạng hoặc không gian thực trong xã hội khó áp dụng được quy định của Luật An ninh mạng, Bộ luật Hình sự, pháp luật hành chính… để xử lý. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt về phòng, chống tin giả tại Việt Nam

Bốn là, các doanh nghiệp trong nước còn gặp nhiều khó khăn về vốn, hạn chế về công nghệ, trình độ quản lý nên các sản phẩm dịch vụ internet, nhất là các dịch vụ truyền thông xã hội ra thị trường còn yếu, không đủ sức hấp dẫn. Việc phải chấp hành nghiêm các quy định về quản lý nội dung thông tin, tên miền, nghĩa vụ tài chính số đối với các doanh nghiệp cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, ít thu hút người tham gia đầu tư; nội dung và tương tác ít, không phong phú, nên hầu hết người dân vẫn sử dụng các ứng dụng xuyên biên giới tiện lợi hơn, như Facebook, Youtube, Google,… để thỏa mãn nhu cầu chia sẻ, bình luận, trao đổi thông tin.

Những nhiệm vụ, giải pháp nhằm thể chế hóa cơ chế kiểm soát và xử lý tin giả ở nước ta thời gian tới

Thứ nhất, tiếp tục chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề an toàn thông tin, an toàn mạng, phòng, chống tin giả; chú trọng nhiệm vụ nâng cao nhận thức, khả năng nhận diện đặc điểm, dạng thức, nguồn gốc... thông tin giả cho đội ngũ cán bộ cơ quan có chức năng, trách nhiệm quản lý, cũng như người dân. Mặt khác, tăng cường phối hợp, liên kết giữa các cơ quan chuyên môn với các đơn vị khoa học - công nghệ nhằm gia tăng việc sử dụng các phần mềm nhận diện tin giả. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền trong đấu tranh với tin giả cần được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, bảo đảm các yếu tố sau: 1- Hoạt động tuyên truyền phải bảo đảm tính kịp thời và có tính lan tỏa tới phạm vi rộng các nhóm công chúng, chú trọng sử dụng các chuyên gia, người có hiểu biết sâu về các lĩnh vực cần tuyên truyền, đồng thời các thông điệp tuyên truyền phải có chất lượng, hấp dẫn, phù hợp với từng đối tượng; 2- Tăng cường nội dung tuyên truyền liên quan tới thực hiện các quy định của pháp luật về an ninh mạng để nâng cao nhận thức của người dùng các phương tiện truyền thông xã hội trong phòng, chống tin giả. Trong đó, cơ quan thực hiện công tác tuyên truyền phải chủ động, thường xuyên phân tích, làm rõ, cung cấp thông tin liên quan tới các hành vi vi phạm Luật An ninh mạng, góp phần nâng cao nhận thức của người dùng các phương tiện truyền thông xã hội về công tác phòng, chống tin giả.

Thứ hai, cần nghiên cứu, tiến hành sửa đổi Luật An ninh mạng năm 2018 theo hướng có quy định cụ thể, rõ ràng, bảo đảm định tính hóa và định lượng hóa những tiêu chí để áp dụng chế tài đối với mọi hành vi của cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc sản xuất, phát tán cũng như sử dụng tin giả. Trong đó, cần xây dựng định nghĩa rõ ràng về khái niệm “tin giả” để dễ nhận diện hơn trong thực tế; đồng thời không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn gắn với tinh thần liêm chính, khoa học cho các cơ quan quyền lực công chịu trách nhiệm quản lý, kiểm soát việc tuân thủ Luật An ninh mạng. Mỗi cơ quan, tổ chức cần xây dựng những bộ quy tắc, quy định về thông tin nội bộ, bảo mật của đơn vị mình; xử lý nghiêm những hành vi phát tán thông tin nội bộ không được phép của các thành viên gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hiệu quả hoạt động của đơn vị; quy định về tư cách cá nhân khi phát ngôn trên trên truyền thông…

Thứ ba, chú trọng phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong quản lý, xử lý tin và và tăng cường các điều kiện bảo đảm công tác phòng, chống và xử lý tin giả; không ngừng cập nhật kiến thức mới, nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, đồng thời phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ đủ hiện đại nhằm phát hiện, ngăn chặn, cảnh báo và xử lý kịp thời vấn nạn tin giả hiệu quả, tránh để rơi vào tình thế bị động dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Bên cạnh đó, cần tập trung nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống cơ quan chuyên trách tư vấn chính sách và giải pháp phòng, chống tin giả. Trước hết, cần phát huy hơn nữa vai trò, tính hiệu quả của Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam; khẩn trương triển khai thực hiện xây dựng những cơ chế, chính sách để hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet, tạo động lực sản xuất, đăng tải nội dung số trung thực, chính xác; xây dựng những ứng dụng truyền thông xã hội đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu người dùng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm sự phụ thuộc vào các phương tiện truyền thông xã hội nước ngoài, trong đó tập trung vào 4 mảng dịch vụ chính, cụ thể: Mạng xã hội; các chia sẻ video, hình ảnh; công cụ tìm kiếm trực tuyến; nền tảng thương mại điện tử…

Thứ tư, cần sớm ban hành quy định về quy trình xử lý tin giả và phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có liên quan trong kiểm soát và xử lý tin giả. Ở nước ta hiện nay, chưa có một bộ quy chế chính thức về quy trình tiếp nhận và xử lý tin giả cũng như trách nhiệm của các bên có liên quan trong quá trình tiếp nhận, xử lý. Sự ra đời của Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam tuy thể hiện bước tiến lớn về nhận thức và thực tiễn đối với vấn đề “tin giả”, tuy nhiên, để bảo đảm tính minh bạch, chuyên nghiệp và hiệu quả hơn thì phải tiếp tục thể chế hóa một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Mặt khác, yêu cầu các ứng dụng truyền thông xã hội xuyên biên giới, như Facebook, Google, Youtube, Tiktok… thực hiện nghiêm các quy định đã có, cam kết không lưu trữ, truyền phát những nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam; đồng thời, hợp tác chặt chẽ trong việc ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin xấu độc…

Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và thiết chế, luật pháp hóa việc nâng cao kỹ năng và trách nhiệm xã hội phòng, chống tin giả cho người dân; xử lý nghiêm, kịp thời những hành vi tạo lập và phát tán tin giả theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, sớm đưa việc giáo dục kỹ năng số vào các cơ sở giáo dục; nâng cao kỹ năng cho người đọc tự bảo vệ mình, phân biệt được tin đúng, tin giả, tin sai sự thật và tích cực tham gia vào quá trình đấu tranh phòng, chống tin giả của đất nước. Chú trọng nâng cao ý thức, nhận thức của người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, bảo đảm sự sáng suốt trong tiếp nhận và xử lý thông tin, theo dõi sát thông tin chính thống, không chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng, chưa được xác thực, tránh gây hoang mang dư luận, tạo hiệu ứng, tâm lý tiêu cực; kịp thời thông báo đến cơ quan chức năng các trường hợp đăng thông tin bịa đặt, sai sự thật. Đồng thời, các cơ quan thực thi pháp luật cũng cần tăng cường rà soát, xử lý nghiêm túc, cương quyết đối với những cá nhân cố tình phát tán thông tin sai sự thật trên các phương tiện truyền thông xã hội, gây hoang mang cho người dân./.

 

Quan hệ hữu nghị vĩ đại Việt Nam - Lào - Tình đoàn kết, gắn bó đặc biệt trong sứ mệnh và con đường phát triển chung

 

Quan hệ hữu nghị vĩ đại Việt Nam - Lào - Tình đoàn kết, gắn bó đặc biệt trong sứ mệnh và con đường phát triển chung

 Quan hệ Việt Nam - Lào là quan hệ hữu nghị vĩ đại được xây dựng, vun đắp và phát triển bởi các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước, là tài sản quý giá của hai dân tộc. Trong giai đoạn mới với bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp và lợi ích đan xen, dựa trên những nét tương đồng về tư tưởng, mục tiêu và lợi ích, quan hệ Việt Nam - Lào vẫn luôn được đề cao, duy trì và phát triển bền vững trong cả hiện tại và tương lai.

Sự tương đồng về hệ tư tưởng

Phát huy và kế thừa truyền thống của Liên minh Việt Nam - Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, được kế tục trong thời kỳ cả hai nước thực hiện nhiệm vụ khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào từ sau năm 1986 tiếp tục được xây dựng, phát triển trên nền tảng cùng ý thức hệ, cùng có chung mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng, phát triển đất nước cả ở Lào và Việt Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-xít - Lê-nin-nít, có chung cội nguồn là Đảng Cộng sản Đông Dương. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào vẫn luôn duy trì mối quan hệ gắn bó mật thiết, luôn hết lòng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước dù tình hình mỗi nước hay bối cảnh quốc tế, khu vực cũng như các mối quan hệ quốc tế của mỗi bên có nhiều thay đổi.

Lịch sử đã chứng minh, hai nước Việt Nam và Lào có chung hoàn cảnh, gần gũi về địa lý và điều kiện tự nhiên, có chung mục tiêu phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược là cơ sở xây dựng mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước Lào và Việt Nam.

Mối quan hệ giữa hai nước được các thế hệ lãnh đạo Việt Nam và Lào dày công vun đắp. Nhận thức rõ tầm quan trọng trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp cách mạng của Lào, Người cho rằng “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”(1). Do đó, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đã thống nhất thành lập Liên quân Lào - Việt vào ngày 30-10-1945, do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Tổng chỉ huy, tổ chức xây dựng lực lượng, kháng chiến chống thực dân Pháp. Đầu năm 1946, khi cách mạng Việt Nam còn đang rất khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử đoàn cố vấn sang giúp Lào, phân công ông Lê Thiệu Huy(2) làm bí thư riêng, phụ tá cho Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Tổng Tư lệnh Pa-thét Lào.

Năm 1952, tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, v.v., mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn hoàn toàn. Cho nên nhiệm vụ của ta lại phải ra sức giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào một cách tích cực, thiết thực hơn. Đó là nhiệm vụ quốc tế của chúng ta”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm giúp đỡ, xây dựng và phát triển lực lượng, phát huy tinh thần tự chủ của cách mạng Lào, coi đây là một nội dung quan trọng nhất của tình đoàn kết và liên minh chiến đấu Việt - Lào(4). Ngày 13-3-1963, trong buổi chiêu đãi vua Sa-vang Vat-tha-na và đoàn đại biểu Hoàng gia Lào nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em… Ngày nay, chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”(5).

Về phía Lào, cả Chủ tịch Xu-pha-nu-vông và Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đều luôn dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam tình cảm trân quý và coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước. Theo Chủ tịch Xu-pha-nu-vông, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mình, nhân dân Lào “luôn luôn có nhân dân Việt Nam anh em ở bên cạnh, sẵn sàng giúp đỡ”(6). Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5-1971, Chủ tịch Xu-pha-nu-vông khẳng định: “Quan hệ hữu nghị anh em giữa nhân dân Lào và Việt Nam thật là vĩ đại... Tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt Lào - Việt Nam cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, thơm hơn bông hoa nào thơm nhất. Tình hữu nghị tốt đẹp đó được vun đắp bằng tinh thần trong sáng, không có kẻ thù nào có thể phá vỡ nổi”(7). Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 15-12-1976), Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đã phát biểu về quan hệ giữa hai nước: “Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh, chiến đấu đặc biệt lâu dài, toàn diện như vậy, hơn 30 năm đã qua mà vẫn trong sáng như xưa - một sự đoàn kết liên minh bền vững...” và “Mối quan hệ Lào - Việt Nam đã trở thành mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thủy chung mẫu mực, hiếm có và ngày càng được củng cố và phát triển tươi đẹp”. Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản thay mặt cho lãnh đạo và nhân dân Lào cam kết: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và nhân dân các dân tộc Lào rất tự hào về mối quan hệ thủy chung, son sắt Lào - Việt, “nguyện ra sức củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt đó, bảo vệ tình đoàn kết Lào - Việt như bảo vệ con ngươi của mắt mình”(8). Các thế hệ lãnh đạo mới ở Lào cũng tiếp tục coi trọng mối quan hệ của Lào với Việt Nam và khẳng định quyết tâm tăng cường mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện của Lào với Việt Nam. Như vậy, có thể nhận định từ khi được đặt nền móng trong quan hệ ngoại giao, quan hệ đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào đã cùng chung hệ tư tưởng trong xây dựng và phát triển đất nước, không ngừng được các thế hệ lãnh đạo hai nước đề cao, củng cố, xây dựng và vun đắp.

Sự chia sẻ mục tiêu quốc gia

Từ năm 1986, khi hai nước bước vào thời kỳ đổi mới, với mục tiêu chung là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng cường hội nhập quốc tế. Hai nước cùng xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất.

Sự tương đồng giữa hai Đảng, hai bộ máy nhà nước và lý tưởng chung xã hội chủ nghĩa, về quan điểm tư tưởng, đường lối, chiến lược phát triển đã giúp hai nước xây dựng được Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, là điều kiện quan trọng tạo nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới. Chiến lược phối hợp hiệp đồng, không vụ lợi như thế chỉ có thể sinh ra từ một đường lối chính trị có sự nhất trí cao độ về quan điểm và lợi ích chân chính. “Về mặt đường lối, mối quan hệ cùng chung một dòng máu chính trị, là tài sản quý báu nhất của hai Đảng, hai nhà nước và hai dân tộc, là một yếu tố quan trọng quyết định đến thắng lợi của cách mạng hai nước trong quá trình chiến đấu trường kỳ gian nan vất vả”(9). Như vậy, sự tương đồng về ý thức hệ cũng như mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước của mỗi bên đang là nhân tố cơ bản tác động đến mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.

Để có được điều đó là nhờ: 1- Cả hai nước Việt Nam và Lào đang xây dựng và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có cùng ý thức hệ. Những kinh nghiệm và sự hỗ trợ của Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn là vô cùng cần thiết và quý giá đối với Lào, ngay trong công cuộc đổi mới đất nước, trong từng bước đi đều có sự trao đổi, bàn bạc nhằm tranh thủ sự giúp đỡ và kinh nghiệm của Việt Nam; Việt Nam đã cử nhiều cán bộ cấp cao sang giới thiệu kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới tại các hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào(10). Việc xây dựng lực lượng cán bộ cốt cán về Đảng, chính quyền, quốc phòng - an ninh... của Lào đều có sự hỗ trợ và giúp đỡ của Việt Nam, hầu hết các thế hệ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị của Lào đều được gửi qua đào tạo ở Việt Nam. Vì vậy, Lào và Việt Nam dễ tìm kiếm quan điểm chung trong các chính sách, chiến lược phát triển; 2- Kể từ khi hai nước tiến hành công cuộc đổi mới, lãnh đạo hai nước đều chủ trương xây dựng mối quan hợp tác trên nguyên tắc “bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”. Điều này có nghĩa là, lãnh đạo hai nước đều quán triệt nguyên tắc giúp đỡ nhau trên tinh thần đồng chí, chí công vô tư, tương trợ tối đa; 3- Công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam và Lào đều được tiến hành trên cơ sở những chủ trương và bằng những phương thức về cơ bản tương đồng với nhau. Đó cũng là thuận lợi cơ bản để hai nước củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt trong bối cảnh mới. Nhờ sự tương đồng về thể chế chính trị - xã hội, có cùng định hướng và mục tiêu phát triển chiến lược, sự kiên định của mỗi bên trong việc gắn bó chặt chẽ với nhau về chính trị; sự tin cậy lẫn nhau, mà quan hệ giữa hai nước được triển khai đều khắp, sâu rộng trên cả ba kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, từ Trung ương đến các địa phương; 4- Việt Nam và Lào đều coi nhau là đối tác đặc biệt, ưu tiên cao nhất trong chính sách đối ngoại của mỗi nước; khẳng định “Lào coi trọng việc tăng cường quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết đặc biệt truyền thống và sự hợp tác có hiệu quả với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(11) và “Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ đặc biệt với Lào”(12). Đây là nhân tố có ý nghĩa quan trọng, cơ bản nhất và mang tính chi phối nhất trong quan hệ Việt Nam - Lào, là cơ sở để kết hợp các nhân tố, thúc đẩy quan hệ hữu nghị gắn bó, đoàn kết đặc biệt giữa hai nước trong hiện tại và tương lai.

Trên phương diện lợi ích quốc gia - dân tộc

Về mặt địa - chính trị, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Việt Nam và Lào đều đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nuớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu không chỉ tạo ra những khó khăn trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và Lào, mà còn gây ra những tác động nhất định về mặt an ninh chính trị, tư tưởng của mỗi nước. Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình, tăng cường chống phá, chia rẽ khối đoàn kết Việt Nam - Lào, không ngừng sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” để tấn công vào sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Nhận thức rõ an ninh của mỗi nước không tồn tại độc lập, nên cả hai nước đều chú trọng, tăng cường hợp tác chặt chẽ về quốc phòng - an ninh, bởi sự hợp tác này được xây dựng trên cơ sở truyền thống chống ngoại xâm của hai dân tộc từ ngàn xưa và sự tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi nước trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.

Lịch sử đã chứng minh, hai dân tộc Việt Nam và Lào gắn kết với nhau như là quy luật tự nhiên và sự gắn kết đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự ổn định về chính trị và sự phát triển của mỗi nước. Yếu tố quốc phòng - an ninh ngày càng trở nên quan trọng và có tác động qua lại lẫn nhau rất rõ rệt. Hợp tác hiệu quả về quốc phòng - an ninh giữa hai nước sẽ giúp an ninh và ổn định chính trị của hai nước được bảo đảm.

Về mặt địa - kinh tế, Lào là nước nằm sâu trong nội địa, không có biển, do đó rất cần các cửa ngõ thông thương ra thế giới. Trong thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, Lào chỉ có thể chính thức giao thương với các nước xã hội chủ nghĩa thông qua cảng Đà Nẵng của Việt Nam, đó cũng là một trong những lý do khiến Việt Nam trở nên vô cùng quan trọng đối với Lào. Sang thời kỳ đổi mới, con đường thông thương của Lào được mở rộng hơn qua các cảng biển khác của Việt Nam, như: Cửa Lò, Vũng Áng, Đà Nẵng... do khoảng cách từ Viêng Chăn đến các cảng của Việt Nam tương đối gần, tạo điều kiện cho hàng hóa của Lào thông thương ra thế giới được dễ dàng hơn. Có thể nói, với hệ thống “đường xương cá” và hệ thống cảng biển thuận lợi, Việt Nam là cầu nối quan trọng để Lào mở rộng sản xuất, thu hút đầu tư, lưu thông hàng hóa... với các nước trong khu vực và thế giới.

Với chính sách mở cửa thị trường, con đường thông thương của Lào qua Thái Lan đã được mở ra. Tuy nhiên, với vị trí địa chiến lược quan trọng của Việt Nam ở Biển Đông, các cảng biển của Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của Lào. Trước hết, không chỉ bởi khoảng cách di chuyển ngắn hơn nhiều so với qua Thái Lan mà còn do những thuận lợi phía Việt Nam dành cho Lào. Miền Trung Việt Nam có thể nói là cửa ngõ ra biển của Lào và Bắc Thái Lan. Vì vậy, sự hiện diện của Thái Lan trong cửa ngõ thông thương ra biển đối với Lào cũng không làm giảm mạnh tầm quan trọng của các cảng biển Việt Nam. So sánh khoảng cách từ cảng Cửa Lò tới Viêng Chăn là 397km, trong khi từ cảng Băng Cốc tới Viêng Chăn là 642km; từ cảng Vũng Áng tới Viêng Chăn tương đương với khoảng cách từ cảng Băng Cốc tới Viêng Chăn; từ cảng Đà Nẵng tới Sa-vẳn-na-khệt khoảng 485km; từ cửa khẩu Đen-sa-vẳn - Lao Bảo tới Đà Nẵng 249km. Đồng thời, với việc hai Chính phủ Việt Nam - Lào đầu tư và khai thác cảng Vũng Áng (Việt Nam góp 80% vốn đầu tư, Lào góp 20%) đã tạo lợi thế cạnh tranh cho các cảng biển Việt Nam so với Thái Lan. Đây cũng là lý do khiến nhu cầu khai thác vị trí địa chiến lược của Việt Nam đối với Lào ngày càng trở nên cần thiết. Với Việt Nam, trong bối cảnh đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Lào như là cầu nối đi sang các nước ASEAN khác, tiêu biểu như Hành lang kinh tế Đông - Tây nối Việt Nam qua Lào, Thái Lan sang Myanmar.   

Đối với Việt Nam, vị trí địa - chính trị của Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ biên giới, ngăn chặn những tác động xấu trực tiếp từ phía Tây vào Việt Nam. Thực tế, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, một số hoạt động chống phá của các thế lực bên ngoài đã lợi dụng địa hình rừng núi làm căn cứ hoạt động và bàn đạp nhằm thâm nhập chống phá Việt Nam. Lào cũng là một nước nằm ở hạ lưu sông Mê Công và việc xây các đập nước của các nước trên dòng Mê Công đã và đang đặt Việt Nam vào tình thế phải gánh chịu những tác động nặng nề về môi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là tác động trực tiếp đến sinh kế của hàng chục triệu người dân sống tại đồng bằng sông Cửu Long, làm mất dần sản lượng cá, canh tác lúa và mất đất ra biển(13). Vì vậy, vị trí địa - chính trị của Lào trên dòng sông Mê Công đã và đang khiến nhu cầu mong muốn hợp tác chặt chẽ Việt Nam - Lào ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Như vậy, sự ổn định trong hòa bình và phát triển của Lào và việc củng cố mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực trở thành một trong những yếu tố cấu thành lợi ích quan trọng, chính đáng của Việt Nam. An ninh và ổn định của Lào có ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh, ổn định và phát triển của Việt Nam do vị trí địa - chính trị của Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ biên giới, ngăn chặn những tác động xấu trực tiếp từ phía tây vào Việt Nam. Sự ổn định an ninh của Lào là điều kiện quan trọng bảo đảm an ninh của Việt Nam và ngược lại. Do vậy, việc tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh luôn là vấn đề sống còn của cả hai quốc gia Việt Nam - Lào.

Có thể thấy, việc tăng cường phát triển quan hệ đặc biệt giữa hai quốc gia giúp Việt Nam và Lào bảo vệ được những lợi ích quốc gia của mình. Những sự tương đồng và lợi ích quốc gia của mỗi nước rõ ràng có tác động tích cực đến quan hệ Việt Nam - Lào, vừa xuất phát từ ý muốn chủ quan (hệ tư tưởng và đường lối của đảng cầm quyền), vừa từ thực tế khách quan do sự phát triển của mỗi nước đòi hỏi./.

Nhìn ra thế giới: Xu hướng chuyển đổi số trong quản trị nhà nước ở Liên bang Nga

 

Nhìn ra thế giới: Xu hướng chuyển đổi số trong quản trị nhà nước ở Liên bang Nga

  Hiện nay, việc chuyển đổi số trong nền hành chính công là một xu hướng tất yếu, song cũng đứng trước nhiều thách thức. Việc chuyển đổi số trong quản trị nhà nước của Nga thời gian qua, cả mặt thuận lợi và khó khăn, nhất là việc xây dựng “chính phủ điện tử”, hướng tới “chính phủ số”, là những bài học kinh nghiệm quý đối với các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Trong nhiều thập niên, nền hành chính công của Nga được cho là một trong những yếu tố cản trở việc giải quyết các vấn đề liên quan đến chất lượng cuộc sống và an ninh của người dân Nga, cũng như việc phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác.

Bước sang thế kỷ XXI, Chính phủ Nga đã nỗ lực nâng cao chất lượng nền hành chính công, bao gồm thực hiện cải cách hành chính và ngân sách, cải cách nền công vụ, chính quyền địa phương, việc phân định quyền lực giữa Nhà nước Cộng hòa Liên bang Nga và các chủ thể cấu thành liên bang, cũng như việc thúc đẩy xây dựng và thực hiện các biện pháp chống tham nhũng. Kết quả là, một số quy định pháp luật đã được ban hành nhằm hình thành các công cụ, cơ chế, thủ tục và đổi mới công nghệ trong quản lý hành chính công; đồng thời đặt ra các nhiệm vụ cho việc phát triển, áp dụng các quy định đó. Tuy nhiên, việc nâng cao chất lượng hành chính công vẫn là một trong những nhiệm vụ chính mà Nhà nước Nga phải đối mặt. Trong phương hướng hoạt động chủ yếu của Chính phủ Nga năm 2018, việc nâng cao chất lượng hành chính công được coi là một trong những lĩnh vực hoạt động quan trọng của Chính phủ nói chung, đồng thời là một trong hai điều kiện để triển khai hiệu quả mô hình tăng trưởng kinh tế mới. Theo đó, bắt đầu từ ngày 1-1-2021, Chính phủ Nga bắt đầu triển khai cải cách hệ thống các cơ quan do chính phủ quản lý. Đây là cuộc cải cách hành chính lớn nhất trong nhiều năm trở lại đây ở Nga. Cuộc cải cách tiến hành kết hợp với việc Nga đẩy mạnh số hóa các dịch vụ công, đặc biệt là việc đưa vào sử dụng các dịch vụ công trực tuyến, cũng như mở rộng mạng lưới các trung tâm cung cấp dịch vụ đa chức năng trên toàn liên bang.

Chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan nhà nước ở Nga

Năm 2017, cuộc cách mạng số đã thành công với cột mốc quan trọng trên phạm vi toàn cầu: một nửa dân số thế giới đã được kết nối internet. Trong đó, theo đánh giá của nhóm chuyên gia Digital McKinsey, Nga là một trong những quốc gia có tiềm năng và triển vọng đáng kể khi số hóa nền kinh tế của Nga góp phần thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước từ 4,1 nghìn tỷ rúp lên 8,9 nghìn tỷ rúp vào năm 2025, đóng góp 19 - 34% GDP cả nước(1).

Năm 2018, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ban hành Nghị định số 204 “Về mục tiêu quốc gia và nhiệm vụ chiến lược phát triển Liên bang Nga đến năm 2024” với các nhiệm vụ mà Chính phủ Nga cần tiến hành trong việc thực hiện Chương trình quốc gia về “Nền kinh tế số của Liên bang Nga”. Một trong những nhiệm vụ ưu tiên là đưa công nghệ số vào lĩnh vực hành chính công và cung ứng dịch vụ công. Việc sử dụng các nền tảng công nghệ kỹ thuật số đã tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi các chức năng hành chính công, giúp tăng cường tương tác hiệu quả giữa cơ quan chính phủ, doanh nghiệp và xã hội.

Trước đó, quá trình chuyển đổi số của nền hành chính công ở Nga bắt đầu từ năm 2008, khi Chiến lược phát triển xã hội thông tin được Tổng thống Nga V. Putin phê duyệt. Để thực hiện chiến lược này, chương trình nhà nước “Xã hội thông tin (giai đoạn 2011 - 2020)” được triển khai nhằm thiết lập một hệ thống nhất quán và hiệu quả cho việc sử dụng công nghệ thông tin. Trong quá trình chuẩn bị, Bộ Viễn thông và Truyền thông đại chúng của Nga đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế liên quan đến việc triển khai các chương trình tương tự. “Xã hội thông tin (giai đoạn 2011 - 2020)” là chương trình nhà nước đầu tiên được Chính phủ Nga phê duyệt trong quá trình chuyển đổi, bao gồm toàn bộ các ngành, lĩnh vực hoạt động nhằm tăng cường tính minh bạch và khả năng quản lý, bảo đảm sự ổn định và gia tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Mục tiêu chính của chương trình nhằm bảo đảm công dân và doanh nghiệp có thể hưởng lợi từ việc áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông, tạo điều kiện cho sự tương tác nhanh chóng và hiệu quả giữa chính phủ, công dân và doanh nghiệp. Chương trình bao gồm bốn chương trình con: “Hạ tầng thông tin viễn thông của xã hội thông tin và dịch vụ dựa trên nền tảng số”, “Môi trường thông tin”, “An ninh trong xã hội thông tin” và “Nhà nước thông tin”. Đặc biệt, chương trình “Nhà nước thông tin” đặt ra mục tiêu chuyển đổi các chức năng quản lý nhà nước sang mô hình số hóa dựa trên năm nguyên tắc sau: 1- Phát triển chính phủ điện tử; 2- Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước thông qua việc triển khai công nghệ thông tin hiện đại; 3- Cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và bảo đảm xã hội dựa trên công nghệ thông tin; 4- Phát triển dịch vụ giáo dục, khoa học và văn hóa dựa trên công nghệ thông tin; 5- Hỗ trợ các dự án vùng trong lĩnh vực công nghệ thông tin.

Trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2017, Nga đã đạt được sự tiến bộ đáng kể trong việc triển khai chính phủ điện tử, bao gồm việc cung cấp dịch vụ công và dịch vụ đô thị dưới dạng điện tử. Trung tâm đa chức năng và cổng thông tin duy nhất về dịch vụ công (EPGU) được phát triển, tạo ra một hệ thống tương tác điện tử giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia, cùng với việc thành lập và vận hành hệ thống thông tin thống nhất về mua sắm của nhà nước và thành phố. Đến năm 2021, mức độ hài lòng của công dân về chất lượng dịch vụ công đạt 75,4%(2).

Cần lưu ý rằng, Chỉ số phát triển chính phủ điện tử toàn cầu (EGDI) của Liên hợp quốc là chỉ số quốc tế hàng đầu để đánh giá mức độ và chất lượng phát triển của chính phủ điện tử, được thực hiện 2 năm/lần đối với 193 quốc gia thành viên của Liên hợp quốc. Chỉ số này bao gồm đánh giá các khía cạnh như các dịch vụ, dịch vụ điện tử do cơ quan chính quyền cung cấp, kết cấu hạ tầng thông tin, truyền thông và tiềm năng phát triển con người. Năm 2016, chỉ số EGDI của Nga được Liên hợp quốc đánh giá là “cao”, trong khi chỉ có 29 quốc gia dẫn đầu có EGDI được xem là “rất cao”. Trong bảng xếp hạng tổng thể về phát triển chính phủ điện tử, Nga đứng thứ 35. Tuy nhiên, so với xếp hạng trước đó (năm 2014), chỉ số này đã giảm 8 bậc, chỉ có Chỉ số dịch vụ và dịch vụ điện tử tăng trong hai năm từ 0,7087 lên 0,7319(3).

Việc hình thành chính phủ điện tử ở Nga trở nên khả thi nhờ sự phổ biến rộng rãi của công nghệ thông tin truyền thông (ICT) trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công. ICT nhấn mạnh vai trò của truyền thông hợp nhất và sự kết hợp giữa viễn thông, hệ thống quản lý tòa nhà thông minh (smarthome) và hệ thống nghe - nhìn trong lĩnh vực công nghệ thông tin hiện đại. Nói cách khác, ICT bao gồm tất cả phương tiện kỹ thuật liên quan đến phần cứng, phần mềm, mạng máy tính và các thiết bị trung gian khác, được sử dụng trong việc xử lý thông tin và truyền thông. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một trong những rào cản đáng kể đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình cung cấp dịch vụ công là sự chậm trễ trong thay đổi về thể chế của nhà nước so với những thay đổi nhanh chóng về công nghệ. Cụ thể là, không có sự tương tác giữa các yếu tố hiện có của hạ tầng chính phủ điện tử, mà phần lớn là kết quả của việc chuyển đổi thủ tục quản lý dựa trên các quy định hành chính hiện hành. Điều này dẫn đến thực trạng một số công đoạn trong thủ tục hành chính vẫn phải áp dụng cách thức truyền thống sử dụng văn bản giấy để cung cấp dịch vụ công.

Hiện nay, Nga đang bước vào một giai đoạn mới trong quá trình chuyển đổi cơ chế hành chính công, với việc hình thành và phát triển “chính phủ số”. Sự khởi đầu của giai đoạn này liên quan chặt chẽ đến việc thông qua Chiến lược phát triển xã hội thông tin giai đoạn năm 2017 - 2030. Trong chiến lược này, đã xác định mục tiêu, nguyên tắc và phương hướng cơ bản của chính phủ về sử dụng và phát triển công nghệ thông tin, viễn thông, khoa học, giáo dục và văn hóa nhằm thúc đẩy đất nước tiến tới xã hội thông tin. Một trong những hướng đi cơ bản để thực hiện chiến lược này là nâng cao hiệu quả của hành chính công, sự tương tác giữa xã hội công dân và doanh nghiệp với các cơ quan công quyền, cũng như cải thiện chất lượng và hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ công. Điều này bao gồm việc phát triển mạnh mẽ hơn chính phủ điện tử và quá trình chuyển đổi hướng tới chính phủ số(4).

Sự phát triển từ chính phủ điện tử đến chính phủ số

Ở nhiều nước trên thế giới, sự phát triển từ chính phủ điện tử sang chính phủ số được coi là một phần quan trọng và tất yếu của quá trình chuyển đổi. Quá trình phát triển chính phủ điện tử đóng vai trò quan trọng như một nền tảng để chuyển đổi các dịch vụ công sang định dạng số ở mọi giai đoạn - từ đăng ký dịch vụ đến thực thi. Chẳng hạn như, Báo cáo về hiệu quả của chính phủ số (Digital Efficiency Report) do Chính phủ Anh thực hiện cho thấy, giao dịch kỹ thuật số có chi phí thấp hơn 20 lần so với giao dịch qua điện thoại, thấp hơn 30 lần so với giao dịch bằng thư từ và thấp hơn 50 lần so với giao dịch trực tiếp. Những khoản tiết kiệm này được coi là cơ hội để nâng cao hiệu quả và giảm chi phí dịch vụ công ở Anh.

Việc phân tích và tổng hợp các công trình nghiên cứu, tài liệu từ tổ chức, các ý kiến chuyên gia cả trong nước và quốc tế cho phép xác định các nguyên tắc chính và các thành phần cơ bản sau đây của khung kiến trúc chính phủ số:

 Một là, các nguyên tắc cung cấp dịch vụ của chính phủ số bao gồm: Tự động hóa mặc định; tập trung vào nền tảng độc lập và thiết bị di động; thiết kế dịch vụ lấy người dùng làm trung tâm; số hóa từ đầu đến cuối; chính phủ được coi là một nền tảng.

Hai là, các thành phần cơ bản của chính phủ số bao gồm: Cổng thông tin duy nhất; dữ liệu duy nhất để chia sẻ trong khu vực công; các dịch vụ liên ngành để chia sẻ; chia sẻ kết cấu hạ tầng công cộng; cải thiện mạng cảm biến và phân tích; an ninh mạng và bảo mật thông tin.

Cần nhấn mạnh rằng, các nguyên tắc này đã được thể hiện trong Chiến lược phát triển xã hội thông tin của Nga năm 2017, là cơ sở cho các chương trình cải cách cơ chế hành chính công. Do đó, sự phát triển của nhà nước “như một nền tảng kỹ thuật số” là một trong những yếu tố chính của khái niệm cải cách hành chính công được đề xuất bởi Trung tâm phát triển chiến lược. Theo các chuyên gia của Trung tâm phát triển chiến lược, Nga cần có những thay đổi trong lĩnh vực quản lý nhà nước, đó là: 1- Tạo lập hệ thống nền tảng số thống nhất của nhà nước, khắc phục vấn đề phân mảnh giữa các hệ thống phòng, ban, dựa trên một tập dữ liệu duy nhất.; 2- Chuyển đổi tất cả dịch vụ công sang hình thức điện tử với hệ thống xác thực sinh trắc học từ xa, cũng như chuyển đổi hoạt động kiểm soát và cấp phép sang định dạng số; 3- Xác lập “bản sao y” cho công dân, tổ chức, đối tượng và triển khai dịch vụ công tự động dựa trên việc phát triển “bản sao y”.

Một trong những nguyên tắc chính trong việc phát triển chính phủ số là chính sách tích hợp dữ liệu, thông tin và dịch vụ trên một cổng thông tin số. Hầu hết chiến lược xây dựng chính phủ số đều đề xuất việc tạo lập một cổng thông tin duy nhất cho các dịch vụ công, giúp người dùng thực hiện giao dịch mà không cần phải chuyển đến các trang web khác. Đồng thời, việc triển khai mô hình tương tác hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong định dạng số dựa trên cổng thông tin chung được coi là một trong những yếu tố quan trọng nâng cao sự cạnh tranh của quốc gia. Đơn cử như, cổng thông tin “ecitizen.gov.sg” của Chính phủ Singapore là một cổng thông tin tích hợp cung cấp khả năng tìm kiếm các dịch vụ giao dịch tương tác, bao gồm việc thanh toán một loạt dịch vụ và một số chức năng quan trọng về xác thực, như đăng ký cấp hộ chiếu và thẻ căn cước. Ở những quốc gia có cấu trúc liên bang, các cơ sở dữ liệu như vậy không chỉ được cung cấp cho chính quyền quốc gia, mà còn cho các cấp khu vực và thành phố(5). Tại Nga, trong vài năm gần đây, các nền tảng kỹ thuật số đã được phát triển ở cấp liên bang và khu vực. Ví dụ, từ năm 2009, cổng thông tin dịch vụ công quốc gia và địa phương (EPGU) đã đi vào hoạt động, là địa chỉ lưu trữ thông tin, biểu mẫu đăng ký và được sử dụng để thanh toán. Năm 2015, EPGU được tích hợp với Hệ thống xác thực và nhận dạng thống nhất (ESIA) của Nga.

Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng của khung kiến trúc chính phủ điện tử và phát triển chính phủ số là hệ thống thông tin thống nhất về mua sắm công - cổng thông tin liên bang được tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu của các tiểu bang và thành phố, cung cấp thông tin công khai về các giai đoạn khác nhau của quá trình mua sắm công, như mua sắm của các cơ quan nhà nước và thành phố, các doanh nghiệp nhà nước, về việc thực hiện các hợp đồng công và các chỉ số về hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Năm 2017, Hệ thống thông tin thống nhất về mua sắm công của Nga (cổng thông tin thống nhất chính thức zakupki.gov.ru) đã có hơn 3 triệu thông báo mua hàng với tổng giá trị trên 7 nghìn tỷ rúp. Hệ thống này tích hợp các hệ thống con và modul khác nhau, bao gồm danh sách khách hàng và nhà cung cấp, hệ thống thương mại điện tử toàn quốc dưới dạng modul mua sắm công.

Theo các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB), phát triển chính phủ số sẽ dựa trên nguyên tắc quản lý nhà nước trên dữ liệu số(6). Các nguồn dữ liệu cơ bản được coi là dữ liệu pháp lý có giá trị, được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu, cũng như các giao dịch và thông báo điện tử có giá trị pháp lý. Về vấn đề này, việc sở hữu tài liệu giấy sẽ không còn hiệu lực pháp lý và việc ủy ​​quyền giao dịch sẽ dựa trên hồ sơ điện tử. Một hệ thống như vậy sẽ cung cấp quyền truy cập vào cơ sở dữ liệu quốc gia không chỉ cho các cơ quan và tổ chức nhà nước, mà còn cho tất cả tổ chức công cộng và tư nhân có quyền quan tâm.

Nhìn chung, quá trình hình thành chính phủ số đòi hỏi sự tích hợp và tương tác giữa các cơ quan nhà nước ở các cấp quản lý khác nhau. Bản chất của việc hình thành chính phủ số là tạo ra điều kiện tiên quyết để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, bao gồm cả vấn đề lập kế hoạch chiến lược, dựa trên cơ sở các nền tảng thông tin số thống nhất. Điều này đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế Nga. Tuy nhiên, việc triển khai công nghệ số và các giải pháp nền tảng trong hệ thống quản lý nhà nước đi kèm với những rủi ro cao đối với an ninh quốc gia (đặc biệt là kinh tế), bao gồm cả việc thực hiện chương trình “Nền kinh tế số của Liên bang Nga”. Để giảm thiểu rủi ro, cần hạn chế việc mua sắm phần mềm từ nước ngoài cho các cơ quan và tổ chức nhà nước. Điều này chỉ có thể thực hiện thông qua nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng trong nước, đồng thời áp dụng công nghệ mới để gia tăng sự độc lập về công nghệ. Như Chủ tịch Công ty InfoWatch, N. Kaspersky nhận xét: “Chúng ta đã phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ nước ngoài..., chúng ta cần phát triển công nghệ của chính mình, điều này có lợi vì chúng ta gần như đã có các nghiên cứu về hầu hết công nghệ được quảng cáo”(7).

Quy trình quản lý số hóa và khoa học

Sự phát triển của lĩnh vực khoa học cùng với sự phát triển của nền kinh tế số đang được xem là một trong 12 dự án quốc gia được triển khai theo Sắc lệnh của Tổng thống Nga V. Putin ban hành ngày 7-5-2018, nhằm bảo đảm sự phát triển đột phá về công nghệ và kinh tế - xã hội của đất nước. Sự liên kết giữa các dự án ưu tiên này, một mặt, tạo ra các công nghệ số toàn diện (chủ yếu dựa trên các sản phẩm phát triển trong nước); mặt khác, bảo đảm sự hấp dẫn đối với nhà khoa học và nhà nghiên cứu trẻ, có tiềm năng ở Nga và nước ngoài.

Dự án chương trình quốc gia “Phát triển khoa học và công nghệ của Liên bang Nga” bao gồm tiểu chương trình “Xây dựng hệ thống kỹ thuật số công khai cho tổ chức khoa học, công nghệ và đổi mới”. Dự kiến ​​đầu tư vào việc thực hiện mục tiêu con này sẽ kéo dài từ năm 2018 đến năm 2025, với khoảng 62 tỷ rúp được cấp theo các hướng: 1- Hỗ trợ chuyên gia dự báo và phân tích để phát triển khoa học - công nghệ, điều chỉnh và chi tiết hóa ưu tiên phát triển, đưa ra và thiết lập các chỉ thị công nghệ; 2- Xây dựng nền tảng số hóa để hỗ trợ các thành viên tham gia quá trình phát triển khoa học - công nghệ; 3- Hỗ trợ hoạt động triển lãm và trưng bày; 4- Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật số cho việc quản lý quyền sở hữu trí tuệ và giao dịch; 5- Hỗ trợ bảo vệ pháp lý và bảo vệ trên thị trường quốc tế; 6- Giám sát và cải tiến hệ thống quản lý phát triển khoa học - công nghệ; 7- Hỗ trợ hình thức tài trợ mới, bao gồm cả việc gọi vốn từ cộng đồng cho các dự án khoa học - công nghệ; 8- Tạo lập và phát triển hệ thống thông tin cho phép theo dõi sự phát triển trong nghiên cứu, tính chuyên nghiệp của các nhà khoa học và kỹ sư, đồng thời tạo điều kiện cho tiếp cận và hỗ trợ.

Ngoài ra, dự án chương trình quốc gia “Phát triển khoa học - công nghệ của Liên bang Nga” còn nhằm cải thiện chất lượng quản lý nhà nước bằng cách tăng cường vốn vô hình và thúc đẩy những thay đổi về chất lượng trong nền kinh tế thông qua việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra bởi những người tham gia vào hoạt động khoa học - công nghệ. Với vai trò thực hiện chức năng quản lý, chính phủ phải chịu trách nhiệm phát triển kết cấu hạ tầng và cơ chế hỗ trợ sự tiến bộ trong lĩnh vực khoa học, đồng thời tạo điều kiện để tăng cường hiệu suất kinh tế nhằm thúc đẩy động lực phát triển của các ngành công nghiệp công nghệ cao trong nền kinh tế quốc gia, từ đó giúp Nga có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế, bao gồm cả lĩnh vực kinh tế số. Tuy nhiên, hiện nay, vị trí này của Nga vẫn còn khá khiêm tốn.

Nói tóm lại, việc triển khai chương trình “Nền kinh tế số của Liên bang Nga” về nguyên tắc là khó thành công nếu không có sự nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực khoa học - công nghệ quốc gia. Việc hình thành năng lực nghiên cứu và nền tảng kỹ thuật là một trong những hướng cơ bản của chương trình này, mục tiêu là tạo ra một hệ thống hỗ trợ cho nghiên cứu ứng dụng, khám phá trong lĩnh vực kinh tế số bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng nghiên cứu cho nền tảng kỹ thuật số, bảo đảm sự độc lập của các công nghệ kỹ thuật số hàng đầu có khả năng cạnh tranh toàn cầu và bảo đảm an ninh quốc gia.

Theo lộ trình phát triển của nền kinh tế số, vào năm 2024, Nga cần có ít nhất 10 nền tảng số hoạt động cho nghiên cứu và phát triển, thể hiện sự tăng trưởng ổn định về số lượng người tham gia được kết nối, đồng thời giảm chi phí kết nối. Ngoài ra, cần thành lập những doanh nghiệp hàng đầu trong các lĩnh vực công nghệ có khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu thông qua việc ứng dụng thành công những kết quả từ nghiên cứu và phát triển. Đó là những công nghệ đầy hứa hẹn giúp cải thiện các thị trường hiện tại, góp phần hình thành các thị trường mới. Những công nghệ như vậy có tầm quan trọng then chốt đối với sự phát triển đồng thời cũng mở ra cơ hội cho nhiều thị trường tiềm năng. Nhìn chung, nghiên cứu và phát triển đóng vai trò quyết định trong quá trình chuyển đổi số toàn cầu đang diễn ra, điều này đòi hỏi việc xây dựng một hệ thống quản lý nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực kinh tế số, bảo đảm sự phối hợp giữa các bên liên quan - đại diện từ các cơ quan hành pháp liên bang, các doanh nghiệp, các cơ sở giáo dục đại học và tổ chức nghiên cứu.

Như vậy, trong quản trị nhà nước, chuyển đổi số là một hướng đi quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả và sự minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đối với Việt Nam, việc áp dụng chuyển đổi số trong quản trị nhà nước có thể tham khảo một số phương thức sau:

Thứ nhất, xây dựng hệ thống thông tin điện tử quốc gia thống nhất. Việc xây dựng một hệ thống thông tin điện tử cho phép các cơ quan nhà nước chia sẻ thông tin và tương tác với nhau một cách nhanh chóng và hiệu quả. Hệ thống này có thể bao gồm việc phát triển các ứng dụng trang mạng và di động để cung cấp các dịch vụ công trực tuyến cho người dân.

Thứ hai, thúc đẩy việc sử dụng chữ ký điện tử và tài liệu điện tử. Chữ ký điện tử và tài liệu điện tử có thể giúp rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính, từ đó giảm bớt tài liệu giấy và tiết kiệm chi phí. Việc áp dụng chữ ký điện tử và tài liệu điện tử cần được hỗ trợ bởi một hệ thống an toàn và đáng tin cậy để bảo vệ tính toàn vẹn của thông tin.

Thứ ba, phát triển dịch vụ công trực tuyến. Cung cấp các dịch vụ công trực tuyến giúp người dân tiếp cận với các dịch vụ nhà nước một cách thuận tiện, như việc đăng ký kinh doanh, nộp thuế, đăng ký xe, đăng ký kết hôn,… Điều này không chỉ giúp tiết kiệm thời gian cho người dân, mà còn giảm bớt tiếp xúc trực tiếp và tiết kiệm chi phí vận hành cho cơ quan nhà nước.

Thứ tư, tăng cường an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu. Chuyển đổi số trong quản trị nhà nước đòi hỏi sự chú trọng đến an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu. Các cơ quan nhà nước cần đầu tư vào hệ thống bảo mật mạng, đào tạo nhân viên về an ninh mạng và thiết lập chính sách bảo mật để bảo đảm sự an toàn của thông tin quan trọng liên quan đến quản trị nhà nước.

Thứ năm, xây dựng nền tảng công nghệ thông tin. Để thúc đẩy chuyển đổi số, cần đầu tư vào việc xây dựng và phát triển một nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, bao gồm việc nâng cao khả năng kỹ thuật của cơ quan nhà nước, nâng cấp hạ tầng mạng, hỗ trợ ứng dụng công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo, blockchain và điện toán đám mây.

Thứ sáu, gia tăng hợp tác giữa các cơ quan nhà nước cũng như giữa các cơ quan nhà nước với khu vực tư nhân để tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của người dân về việc thực hiện chuyển đổi số. Đồng thời, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các quốc gia đã thành công trong việc thực hiện chuyển đổi số./.

 

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được bảo đảm

 

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được bảo đảm

Trong thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội liên tục đăng tải những thông tin xuyên tạc tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Bài viết “Chính quyền gia tăng đàn áp giới hoạt động về quyền của người Khmer Krom” đăng trên trang “rfatiengviet” là một trong số đó.

Bài viết xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta; vu cáo chính quyền “đàn áp và sách nhiễu những người hoạt động vì quyền của người Khmer Krom”; đồng thời, tuyên truyền cái gọi là “dân tộc bản địa” trong đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng Nam Bộ. Thực chất của những luận điệu trên là xuyên tạc, lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết, kích động tư tưởng ly khai, tự trị ở nước ta nói chung, Nam Bộ nói riêng. Thực tế đã bác bỏ những luận điệu trên.

Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm cả về mặt pháp lý và thực tiễn, đặc biệt là trong thực tiễn. Các tôn giáo ở nước ta luôn có đường hướng hành đạo cũng như các quy định cho các tín đồ tuân theo pháp luật, thực hiện tôn giáo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người là quan điểm, chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước.

Tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Điều 6, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 xác định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo”. Tuy nhiên, việc bày tỏ niềm tin tôn giáo cũng như sinh hoạt, hoạt động tôn giáo không được trái với quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo. Tại Điều 5 của Luật này cũng chỉ rõ những hành vi bị nghiêm cấm: “phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác, chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi”.

Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, có những chủ trương, chính sách đúng đắn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật và đường hướng hành đạo đã xác định. Trong thời kỳ đổi mới, các tổ chức tôn giáo có những biến đổi theo hướng đồng hành cùng dân tộc, tăng nhanh về số lượng tín đồ, các công việc nội bộ được tôn trọng, các hoạt động in ấn, xuất bản được mở rộng. Đi đôi với bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người, Đảng, Nhà nước ta cũng kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa như: trục lợi, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở, phá hoại cuộc sống yên bình của người dân (trong đó có đồng bào theo đạo). Đây là đối tượng mà các thế lực thù địch, phản động cho là những người “đấu tranh” vì dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, vu khống Đảng, Nhà nước ta phân biệt, đối xử, luôn “đàn áp và sách nhiễu”.

Dư luận đều biết rõ về những vụ việc, tổ chức và cá nhân này. Họ thường có những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, câu kết chặt chẽ với các thế lực phản động ở nước ngoài phát tán các tài liệu phản động, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tập hợp lực lượng chống đối, gây rối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội nói chung, sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào có đạo nói riêng. Xét ở khía cạnh này cho thấy, họ đã không làm gì cho đất nước, làm cho người dân được bình an, hạnh phúc mà chỉ làm những việc trái với luân thường đạo lý, truyền thống văn hóa dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại sức khỏe, sự nghiệp, tiền tài của biết bao gia đình. Ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới chứ không riêng ở Việt Nam, công dân phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Chức sắc, tín đồ các tôn giáo là công dân Việt Nam nếu có những hành động cản trở công cuộc đổi mới, không “ích nước, lợi dân” đều bị xử lý theo pháp luật. Các cá nhân, tổ chức trên bị xử lý vì vi phạm pháp luật chứ không phải vì họ theo tôn giáo này hay tôn giáo khác hoặc không theo tôn giáo nào.

Như vậy, bài viết “Chính quyền gia tăng đàn áp giới hoạt động về quyền của người Khmer Krom” là hoàn toàn bịa đặt, xuyên tạc tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam nói chung, Nam Bộ nói riêng, đổi trắng thay đen một cách trắng trợn giữa chức sắc, tín đồ “tốt đời, đẹp đạo” với những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng, vừa phá đạo vừa hại đời. Vì thế, chúng ta cần tỉnh táo, cảnh giác vạch trần và đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động./.