Thứ Năm, 29 tháng 2, 2024

Tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

 

Tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò quan trọng và luôn mang tính thời sự. Trước tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như hiện nay thì tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người nhấn mạnh, để Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thử máy cấy lúa cải tiến tại Trại thí nghiệm trồng lúa Sở Nông lâm Hà Nội (năm 1960)_Ảnh: Tư liệu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh đạo đức là cái gốc của con người trong mọi thời đại, mà còn đưa ra khái niệm đạo đức mới, với nội dung mới, phản ánh đạo đức ở tầm cao hơn, rộng hơn, sâu sắc hơn, đó là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng làm nên sức mạnh của Đảng và là một nhân tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức bắt nguồn từ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó còn là sự vận dụng và phát triển sáng tạo đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; sự tiếp thu và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại mà Người đã tiếp cận được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách, vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đối với cách mạng Việt Nam, sự đòi hỏi về đạo đức còn cao hơn, bởi cách mạng Việt Nam phải tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt: Tiến hành ở một nước nông nghiệp lạc hậu và phải đương đầu với các thế lực thù địch, phản động nhất, xảo quyệt nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng nhất định sẽ thành công, nhưng thành công nhanh hay chậm, mức độ thành công lớn hay nhỏ... tùy thuộc vào đạo đức cách mạng của những người làm cách mạng, trình độ giác ngộ cách mạng và ý chí chiến đấu của quần chúng nhân dân. Người nhấn mạnh: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Đề cao vai trò của tư tưởng, tinh thần, đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có người nói: Lúc này mà xem trọng tinh thần tư tưởng là không duy vật biện chứng. Các cô, các chú có biết vì sao mà cách mạng của ta thành công không? Vì tinh thần. Lúc bấy giờ thực dân, phong kiến có công an, quân đội, cảnh sát, chính quyền - tất cả, Đảng ta chỉ có hai bàn tay không. Vì sao ta thành công? - Vì ta đoàn kết! Lấy gì mà đoàn kết? Lấy tinh thần!”.

Với tinh thần ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người không ngừng giáo dục những phẩm chất đạo đức cách mạng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đạo đức cách mạng, một mặt, là một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp cách mạng trước đây cũng như hiện nay; mặt khác, là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của những người lãnh đạo. Trong lịch sử các nước phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, những vị vua nắm quyền trị nước cũng như những lãnh tụ dân tộc muốn lãnh đạo được nhân dân và được nhân dân tin theo, đều phải là những người gương mẫu về đạo đức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Bản thân Người nêu cao tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng - những phẩm chất đạo đức cao đẹp, trong đó bao hàm nhiều giá trị mới, tích cực và tiến bộ. Người quan niệm đạo đức cách mạng là nền tảng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của người cách mạng. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần chất phác, giản dị, khiêm tốn; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Người chỉ rõ: “Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò, tác dụng cũng như những biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng và chứng thực điều đó qua tấm gương của những chiến sĩ cộng sản tiền bối đã làm nên truyền thống vẻ vang của Đảng, của cách mạng: “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và tài năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc; nhờ đó mà đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng, góp phần to lớn vào sự thành công của cách mạng nước ta. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức nói chung cũng như đạo đức cách mạng nói riêng cho mọi người, trước hết là cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. 

Tựu trung lại, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng gồm những điểm cơ bản sau đây:

Một là, phẩm chất trung với nước, hiếu với dân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ quan niệm đạo đức cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong xã hội phong kiến phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cao rộng hơn là “trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Chỉ dẫn đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn lâu dài mãi mãi về sau.

Hai là, tình yêu thương con người. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tình yêu thương con người rất toàn diện và độc đáo. Người xác định tình yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp nhất trong tình cảm đạo đức của loài người. Người luôn dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí rất bao la, sâu rộng và toàn diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già, trai, gái..., hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt là đối với những người phạm phải sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác”. Chính vì vậy, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn Đảng: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến tình yêu thương con người.

Ba là, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. 

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, sáng tạo, có kế hoạch, có năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. Kiệm còn có nghĩa là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của nhân dân; phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, không ham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, nhờ đó mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn; đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình; đối với người thì không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc; đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Chí công vô tư tức là “làm việc vì sự nghiệp chung, đặt lợi ích công lên trên hết, trước hết; không tư lợi, vụ lợi, không vì lợi ích riêng”. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình phải đi sau, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi người, nhất là những người có vị trí ảnh hưởng đối với xã hội, cộng đồng, phải luôn phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hành theo bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một đức tính cũng không thể thành người. Bởi, “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/Thiếu một mùa, thì không thành trời/Thiếu một phương, thì không thành đất/Thiếu một đức, thì không thành người”.

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. 

Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một câu thơ “Quan sơn muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!”, là tinh thần đoàn kết giữa những người cộng sản với các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động trên thế giới mà Người đã dày công vun đắp bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Đó cũng là tinh thần đoàn kết, hợp tác và hữu nghị của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, vì mục tiêu hòa bình, công lý, tiến bộ xã hội và độc lập dân tộc.

Đánh giá cao vai trò của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ phải vừa có tài, vừa có đức, trong đó, đức là gốc. Chính Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, là kết tinh tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất của người Việt Nam và những phẩm chất đạo đức cộng sản cao quý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những quy tắc đạo đức mà Người nêu ra đã trở thành vũ khí tinh thần mạnh mẽ của cả dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới. Trong suốt 53 năm thực hiện Di chúc của Người, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng tiếp tục là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của đất nước ta, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay.

Tiếp tục tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Để mỗi cán bộ, đảng viên luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức tốt đẹp của mình, giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng trong mọi điều kiện, môi trường xã hội khác nhau thì cùng với sự tự giác rèn luyện, phấn đấu, còn phải cần đến sự giúp đỡ, kiểm tra, giám sát của Đảng. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng trở thành đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Người coi là công việc càng phải tiến hành thường xuyên, liên tục hơn. Với nhãn quan đặc biệt nhạy bén về chính trị, Người đã nhìn nhận rõ tính hai mặt vốn có của quyền lực: Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, sa vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực; lợi dụng quyền lực để lạm quyền, lộng quyền, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền, đặc lợi của cá nhân... Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để ngăn chặn, đẩy lùi và liên tục tẩy trừ mọi tệ nạn do sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên gây ra, trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội. Nhận thức rõ sự tác động qua lại giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và môi trường xã hội, cũng như những đổi thay có thể diễn ra trong nhân cách cùng ý thức và hành vi đạo đức của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến một nhận định mang tính triết lý và thực tiễn sâu sắc, có giá trị to lớn trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Đây chính là lời cảnh tỉnh sâu sắc đối với các đảng cộng sản cầm quyền, đối với mỗi đảng viên cộng sản, nhất là những đảng viên cộng sản có chức, có quyền, giữ các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân tộc thôn Đăk Mút, xã Đăk Mar, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum_Ảnh : TTXVN

Qua hơn 35 năm đổi mới, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội có bước chuyển biến tích cực, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Đa số cán bộ, đảng viên tích cực trau dồi, rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, trước những tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó có mặt trái, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa học và công nghệ... một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Nhận định những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, ngay từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng đã chỉ ra những biểu hiện của tình trạng này và coi đó là một trong bốn nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam. Tại các kỳ Đại hội Đảng và nhiều hội nghị Trung ương tiếp theo, Đảng có những đánh giá thẳng thắn về các nguy cơ này; trong đó, nổi lên các biểu hiện đáng lo ngại là: Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phai nhạt lý tưởng, niềm tin đối với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt nguy hiểm là sự “trỗi dậy” của chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, chạy theo các giá trị vật chất, xem thường các giá trị tinh thần; chỉ lo vun vén cho cá nhân mà thờ ơ, lảng tránh trách nhiệm với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Tính trung thực (cả trong tư tưởng, chính trị và đạo đức) của không ít cán bộ, đảng viên bị suy giảm nghiêm trọng. Nói không đi đôi với làm. Kèn cựa địa vị, tranh chức tranh quyền, bằng mọi thủ đoạn để tìm kiếm các mối quan hệ, liên kết “lợi ích nhóm” bất chính “lợi mình hại người”, dùng tiền bạc do tham nhũng để mua chức, mua danh, bất chấp cả liêm sỉ, đạo lý. Nạn tham nhũng tồn tại kéo dài, ngày càng diễn biến phức tạp và tinh vi, gây nhức nhối về đạo đức trong Đảng, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân và xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ.

Như vậy, thực trạng suy giảm đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gây hậu quả rất nặng nề, làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng, mà nếu không được ngăn chặn và đẩy lùi triệt để thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Tâm trạng xã hội và ý nguyện của nhân dân lúc này là thiết tha mong muốn, đồng thời nghiêm khắc đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh bắt đầu từ đạo đức. Cán bộ, đảng viên phải chứng tỏ trên thực tế, bằng những việc làm, ứng xử và hành xử, là những người có đạo đức.

Nhìn nhận rõ thực trạng đó, tại Đại hội XII, Đảng đã nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức và đây là một trong những điểm mới, rất căn bản và trọng yếu trong việc mở rộng nội dung xây dựng Đảng: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức””. Lần đầu tiên, Đảng đưa nội dung xây dựng Đảng về đạo đức - một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng - vào trong văn kiện. Đại hội XIII của Đảng bổ sung một thành tố nữa vào công tác xây dựng Đảng là cán bộ: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(16). Đó vừa là định hướng thực tiễn, vừa là chỉ báo đánh giá kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Thực hiện tốt nội dung xây dựng Đảng về đạo đức sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây chính là khâu đột phá về lý luận và thực tiễn đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền đang thực thi trọng trách lịch sử mà dân tộc và nhân dân ủy thác: Lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, vì Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong thời gian tới, để tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần đặc biệt quan tâm đến một số nội dung sau:

Một là, mọi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây phải được xác định là biện pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Trước hết, việc học tập, tự học tập để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Các nội dung học tập phải được đưa vào sinh hoạt chi bộ và trở thành nền nếp. Thường xuyên trao đổi, thảo luận, tự phê bình và phê bình, đóng góp ý kiến xây dựng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn vị, địa phương. Biểu dương những việc làm tốt, kịp thời phát hiện, uốn nắn những việc làm chưa tốt, nhất là trong việc vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác vào việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác phấn đấu và tu dưỡng, rèn luyện theo những chuẩn mực đạo đức được xây dựng ở địa phương, cơ quan, đơn vị, trong từng tổ chức đảng.

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Si  Ma Cai, tỉnh Lào Cai giúp dân_Nguồn: baolaocai.vn

Hai là, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; theo đó, tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, đặc biệt là quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Đây được xác định là khâu mấu chốt để thực hiện việc nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.

Để thực hiện tốt nội dung này, cần giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định của Đảng về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

Ba là, coi trọng xây dựng quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tổ chức. Một mặt, để nêu cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, yêu cầu đặt ra trước hết là phải xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ của mỗi người, mỗi tổ chức thì tổ chức, đơn vị đó mới hoạt động có hiệu quả. Thực tế cho thấy, phải có trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng thì mỗi cá nhân mới có đóng góp cụ thể cho tổ chức, mới “nói đi đôi với làm”, tham gia cùng tập thể chống chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, để động viên, khuyến khích tinh thần trách nhiệm và hạn chế thói lười biếng, vô trách nhiệm, ỷ lại, tư lợi cá nhân của cán bộ, đảng viên, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, đảng viên. Cấp ủy các cấp cần thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát về những nội dung này; thông qua kiểm tra, giám sát để quản lý chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên ở nơi công tác, nơi cư trú và khi công tác xa cơ quan, đơn vị, nhất là những cán bộ có chức, có quyền, trong các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra sai phạm, như quản lý kinh tế, công tác cán bộ... Đồng thời, phát hiện và xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm tư cách, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.

Bốn là, không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật gắn với việc tăng cường hơn nữa tính nghiêm minh của kỷ luật đảng và pháp luật của Nhà nước. Quá trình đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đặt ra yêu cầu phải khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để hạn chế những “lỗ hổng” dễ bị lợi dụng; đặc biệt, cần tăng cường kỷ cương, phép nước, tính nghiêm minh của pháp luật để củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Đồng thời, tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng và thực hiện kỷ luật đảng thật sự nghiêm minh; xử lý kịp thời, công khai những cán bộ, đảng viên vi phạm, dù ở cương vị, chức trách nào; kiên quyết đấu tranh với những thói hư, tật xấu trong Đảng.

Năm là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân trong giám sát cán bộ, công chức. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài của công tác xây dựng Đảng, cũng như trong việc phòng, chống chủ nghĩa cá nhân và ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Bên cạnh đó, cần phát huy mặt tích cực của dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giáo dục, răn đe đối với mọi cán bộ, đảng viên, đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống./.

ST.

Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng

 

Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng

“Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng”

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển và ứng dụng internet cao nhất thế giới. Tính đến cuối năm 2023, có khoảng hơn 77 triệu người Việt Nam sử dụng internet, chiếm khoảng 79,1% dân số. Người dân Việt Nam tham gia mạng xã hội ngày càng đông đảo, hiện có khoảng 70 triệu người (71% dân số). Các mạng xã hội được người dân Việt Nam sử dụng là Facebook, Google Plus, Zalo, YouTube, Messenger, Twitter, Instagram v..v. Tuy nhiên, không gian mạng cũng có nhiều rủi ro và nguy cơ tiềm ẩn mà mỗi người dân chúng ta cần phải khắc phục và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất để bảo vệ, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Ðồng thời, tuyên truyền, lan toả rộng rãi sự đúng đắn của nền tảng tư tưởng của Ðảng.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, lực lượng chống cộng cực đoan ở nước ngoài, các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng internet và các trang mạng xã hội để tán phát các tin, bài, videoclip có nội dung xấu độc, xuyên tạc, cắt ghép hình ảnh, pha trộn thật giả, vu khống, lôi kéo và cổ súy tư tưởng, cá nhân bất mãn chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN và lực lượng vũ trang với sự gia tăng cả về cấp độ, tần suất và lưu lượng tin, bài. Mục tiêu của chúng ngày càng tinh vi, thâm hiểm nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng và sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thông qua Internet, mạng xã hội, các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách gây mất ổn định chính trị - xã hội, gieo rắc sự hoài nghi, mất niềm tin, thái độ bất mãn, từ đó tạo dựng lực lượng chống đối ở trong nước, tạo cớ can thiệp từ nước ngoài chống phá nước ta.

Ðại hội XIII của Ðảng đề cập trực tiếp và nhấn mạnh việc quản lý và phát triển thông tin trên không gian mạng, trong đó có việc đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên Internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”.

Thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục chĩa mũi nhọn tấn công vào những vấn đề tư tưởng, lý luận, đồng thời sử dụng không gian mạng là một mặt trận chính để chống phá ta. Do đó công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch trên không gian mạng có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Ðảng. Theo đó, cần thực hiện tốt các nội dung, biện pháp sau:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng, bản lĩnh và trách nhiệm chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tham gia, sử dụng, khai thác internet và mạng xã hội

Hai là, đội ngũ cán bộ, đảng viên thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm các quy định trong khai thác, sử dụng internet và mạng xã hội

Ba là, đội ngũ cán bộ, đảng viên thường xuyên nâng cao cảnh giác, tích cực, chủ động đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội.

Bốn là, củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực của cơ quan và lực lượng chuyên trách trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Năm là, thường xuyên thực hiện tốt công tác sơ, tổng kết, biểu dương, khen thưởng kịp thời đối với cán bộ, đảng viên có thành tích tốt trong tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là trách nhiệm, vinh dự của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Từ kết quả đã đạt được và yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra hiện nay, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, nhằm phát huy hơn nữa vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên trong cuộc đấu tranh này.

XÂY DỰNG VĂN HÓA "MẠNG"

 XÂY DỰNG VĂN HÓA "MẠNG"

Trong thời đại 4.0, mạng xã hội dần trở nên gần gũi và phổ biến, thậm chí đã trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống của hết thảy người dân hầu như trên toàn thế giới. Nó đã làm thay đổi thế giới một cách sâu sắc. Các mối quan hệ xã hội từ chính trị đến kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá, nghệ thuật đều được tác động, thúc đẩy.

Sự thay đổi có mặt thuận và mặt không thuận, nếu biết khai thác, phát huy những lợi thế ưu việt của thông tin từ mạng xã hội này thì người dân và quốc gia có thêm điều kiện hội nhập, phát triển, nếu không sẽ có những tác động tiêu cực và để lại nhiều hệ lụy khôn lường.

Trên thế giới hiện đang tồn tại hàng triệu website có nội dung không lành mạnh, thậm chí độc hại ảnh hưởng rất xấu đến đạo đức, lối sống, nhân cách của mỗi người và cả cộng đồng, đã gây ra nhiều hệ lụy cho đời sống văn hóa, xã hội khi cộng đồng mạng sử dụng trang cá nhân như một thế giới tự do phát ngôn, tự do cung cấp thông tin, hình ảnh không được kiểm soát, cả những phát ngôn bốc đồng nông nổi bất chấp hậu quả. Từ đó, đạo đức bị băng hoại, văn hoá bị tầm thường hoá, méo mó, an toàn xã hội bị đổ vỡ… Đó là chưa nói đến những ảnh hưởng bất lợi khác về chính trị, kinh tế do một số website cố tình hay vô tình gây ra.

Đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất từ các website xấu chủ yếu là thanh, thiếu niên, vì họ chưa được trang bị đầy đủ tri thức và kinh nghiệm về cuộc sống, xã hội. Sự ham hiểu biết của tuổi trẻ nếu không được hướng dẫn sẽ bị các thông tin từ trang "website đen" đánh lừa, chinh phục.Rất nhiều vụ việc, vụ án đã có căn nguyên từ ảnh hưởng của lối sống buông thả và bạo lực trên các website.

Đây là điều chúng ta đã biết từ lâu. Để góp phần bảo vệ thế hệ trẻ và toàn xã hội khỏi bị ảnh hưởng xấu từ mạng xã hội, ngày 17-6-2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT về việc ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội nhằm tạo điều kiện lành mạnh mạng xã hội tại Việt Nam, đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền tự do kinh doanh, không phân biệt đối xử nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước, phù hợp với chuẩn mực, thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Mỗi người phải hiểu rằng một khi đã mở lòng mình ra trên thế giới ảo thì cũng phải đến với mọi người bằng tâm thế thiện chí, chân thật; phê phán vấn đề, hiện tượng cũng cần mang tính phản biện, xây dựng chứ không phải buông tuồng tùy tiện, nói gì thì nói. Không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kỳ quốc gia, dân tộc nào đều có một điểm chung bắt buộc là các quyền tự do ngôn luận phải trong khuôn khổ pháp luật, những ý kiến phát biểu có trách nhiệm và đúng sự thật.

Nhiều nước trên thế giới, chỉ cần bôi bác, vu khống người khác trên mạng là có thể bị ra tòa. Tất nhiên, ai cũng có quyền bày tỏ chính kiến nhưng mọi thứ đều phải dựa trên nguyên tắc xây dựng, tự do nhưng cũng phải trong vòng kiểm soát của pháp luật. Một khi những quy định của phát luật không điều chỉnh theo kịp với sự phát triển của xã hội, không thay đổi cách thức quản lý thì tất yếu sẽ có những rối loạn.

Chúng ta rất cần hình thành một văn hoá cộng đồng mạng, xác lập được những chuẩn mực, giá trị trong quá trình sử dụng internet, bao gồm cả mục đích, lợi ích, hiệu quả thiết lập mạng và khai thác, các quan hệ ứng xử… Đây là phương tiện hữu ích để mỗi người dân có thể bày tỏ quan điểm cá nhân, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm sống, nêu gương người tốt, việc tốt để mọi người học tập và làm theo; hoặc phản ánh những tiêu cực, bất hợp lý, những hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân để cơ quan chức năng của Nhà nước xử lý theo quy định pháp luật.

Mỗi người dân chúng ta cần phải sáng suốt nhận biết và hiểu đúng về "tự do ngôn luận" và "ngôn luận tự do" để không rơi vào "bẫy" của những kẻ bất mãn, có quan điểm thù địch, vô tình tiếp tay cho các hoạt động chống phá; cảnh giác với những thông tin xấu độc, không chia sẻ bừa bãi trên mạng xã hội một cách vô cảm, để rồi có các hành vi tiêu cực, phản cảm, thiếu văn hóa, thậm chí vô tình vi phạm pháp luật.

Hướng đến xây dựng chuẩn mực đạo đức về hành vi ứng xử trên mạng xã hội, giáo dục ý thức, tạo thói quen tích cực trong các hành vi ứng xử của người dùng trên mạng xã hội, góp phần xây dựng mạng an toàn, lành mạnh tại Việt Nam, trước nhất vẫn là cần ở ý thức cá nhân của mỗi người. Những ý kiến đóng góp, phản ánh của cộng đồng mạng phải đúng, chân thành, mang tinh thần xây dựng, vì lợi ích chính đáng của đất nước, của người dân, dần hình thành những tập quán mới, đúng đắn, phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức dân tộc hướng đến chân, thiện, mỹ trong việc khai thác, sử dụng hiệu quả những thông tin từ internet./.

“VOI CHUI LỖ KIM” LÀM MẤT NIỀM TIN NGHIÊM TRỌNG

 


“VOI CHUI LỖ KIM” LÀM MẤT NIỀM TIN NGHIÊM TRỌNG

“Con voi chui lọt lỗ kim” là câu ta thán của không ít người dân, nhất là ở những cơ quan, đơn vị, địa phương có cán bộ, công chức (hoặc người thân quen của cán bộ, công chức) ngang nhiên vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà các cơ quan chức năng “không biết”, không xử lý.

Suy cho cùng, những vụ việc kiểu “con voi chui lọt lỗ kim” chính là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân giảm sút niềm tin vào Đảng, Nhà nước; là nguy cơ xuất hiện các biểu hiện "tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

1. Về các địa phương tiếp xúc, trò chuyện với người dân, chúng ta được nghe khá nhiều chuyện về hiện tượng “con voi chui lọt lỗ kim”, như: Khu homestay ngang nhiên xây trên đất nông nghiệp là của em trai ông cán bộ tỉnh đấy!; ngôi nhà của lãnh đạo quận xây vượt 2 tầng so với giấy phép, cao vọt hẳn lên so với những ngôi nhà xây đúng quy định, nhưng có bị xử lý gì đâu?; ông phó chủ tịch xã học chưa hết cấp 3, dân làng xì xào mà không hiểu sao ông ta vẫn có bằng đại học, vẫn thăng tiến; đất nhà mình ở từ thời ông cha thì đề nghị mãi vẫn không được cấp sổ đỏ, trong khi đó đất nông nghiệp gia đình cán bộ lấn chiếm thì có sổ đỏ hết rồi; quán bia đó bao năm chiếm hết vỉa hè nhưng không bị dẹp vì có cán bộ “bảo kê”, những nhà khác vừa bày vài cái ghế ra đã bị nhắc nhở, xử phạt...

Điều rất đáng lo ngại là khi kể những chuyện như trên, người dân thường bày tỏ thái độ bất bình. Không chỉ bức xúc với những cán bộ, người trực tiếp liên quan đến sự việc vi phạm “cả làng, cả phố biết nhưng cơ quan chức năng “không biết”, không xử lý!” mà một số người dân còn bày tỏ sự thiếu tin tưởng vào cấp ủy, chính quyền địa phương, kỷ cương phép nước, thậm chí giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.

Ví dụ mới đây, việc ông Nguyễn Công Thắng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bắc Ninh sử dụng bằng thạc sĩ giả khiến dư luận hết sức bất bình, bởi qua bao nhiêu cấp, bao nhiêu lượt kiểm tra mà vẫn lọt “con voi”; nhiều người đặt câu hỏi: Liệu có sự bao che, tiếp tay cho cán bộ này?...

Hay nhiều nhất là tình trạng xây dựng không phép hoặc xây vượt giấy phép được cấp mà cán bộ và cơ quan chức năng "làm ngơ". Chất vấn Bộ trưởng Bộ Xây dựng tại phiên họp cuối năm 2022, đại biểu Nguyễn Thị Thủy, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nêu thực tế ở nhiều nơi, rằng: Người dân chỉ cần chở một xe cát để sửa chữa nhỏ ngôi nhà trong ngõ sâu thì cán bộ cơ sở, thanh tra xây dựng biết ngay; thế nhưng có những công trình xây dựng lớn, vi phạm "tày đình" ở ngay mặt đường mà lực lượng chức năng lại "không phát hiện ra"! Điển hình là trường hợp "đại gia điếu cày" Lê Thanh Thản ngang nhiên "xây chui" cả tòa chung cư cao tầng ở phường Kiến Hưng (Hà Đông, Hà Nội) nhưng chính quyền cơ sở "không biết", cho đến khi những người mua nhà tại đây không làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng thì mới phát hiện ra (!).

2. Có lẽ cán bộ, đảng viên nào cũng biết lời nhắc nhở, răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền" và "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước".

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải mẫu mực nêu gương, trước hết là người đứng đầu. Đặc biệt, những năm qua, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định về việc cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, như: Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Quy định số 101-QÐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định về những điều đảng viên không được làm...

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hiện nghiêm các quy định của Ðảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Ðảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiền phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng. Nêu gương là trách nhiệm, bổn phận và là đạo lý của người đảng viên của Ðảng trước nhân dân; trách nhiệm nêu gương đó phải được thể hiện từ trong tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự phê bình và phê bình đến trong quan hệ với quần chúng, trách nhiệm trong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết nội bộ”.

Thực tế những năm qua, Đảng, Nhà nước kiên quyết xử lý nhiều cán bộ, đảng viên có vi phạm, khuyết điểm với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Từ năm 2012 đến 2022, cả nước đã xử lý kỷ luật 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.700 cán bộ, đảng viên có sai phạm, trong đó hơn 190 cán bộ diện Trung ương quản lý. Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã khởi tố, điều tra 1.304 vụ/3.523 bị can về các tội tham nhũng (tăng hơn 2 lần về số vụ án và hơn 3 lần về số bị can so với nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng); thi hành kỷ luật 91 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 17 Ủy viên và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng (tăng gần 2 lần so với nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII)... Qua đó cho thấy Đảng, Nhà nước ta không bao che, dung túng cho những cán bộ, đảng viên có vi phạm.

Thế nhưng, những sự việc kiểu “con voi chui lọt lỗ kim” mà người dân vẫn thấy ở không ít cơ quan, đơn vị, địa phương, nhất là ở cấp cơ sở vẫn là điều rất đáng báo động. Đáng lưu ý là thông tin hiện nay được lan tỏa rất nhanh và rộng thông qua internet, mạng xã hội, có tác động rất lớn tới tư tưởng, tình cảm, tâm lý của mọi người và dư luận xã hội. Hơn nữa, thời đại văn minh, xã hội dân chủ thực sự rất bất bình, bức xúc trước những sự việc cán bộ, đảng viên đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, tiêu cực, nhất là những biểu hiện ngang nhiên coi thường kỷ cương phép nước. Nếu vẫn còn hiện tượng “con voi chui lọt lỗ kim” thì niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, Nhà nước sẽ bị suy giảm nghiêm trọng; không kiên quyết ngăn chặn hiệu quả sẽ là mối nguy của Đảng, dẫn đến hậu quả khôn lường. Đây chính là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

3. Cổ nhân đã đúc rút “Mất niềm tin là mất tất cả” và “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Thấu hiểu sự vô cùng nguy hại của việc cán bộ, đảng viên “Nói một đằng, làm một nẻo” cũng như để xảy ra các vụ việc tiêu cực kiểu "Con voi chui lọt lỗ kim", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: Cán bộ mà không gương mẫu thì dân sẽ không tin; cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiền phong, gương mẫu... Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trọng tâm là phải phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, coi đây là gốc của mọi vấn đề”...

Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới mà Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII vừa ban hành cũng đã xác định: Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và tính chiến đấu, sự nêu gương của Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, đạo đức, năng lực, uy tín, có tầm nhìn chiến lược. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả...

Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm những cán bộ có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”... Đồng thời, nghị quyết cũng nêu rõ phương châm phải dựa vào sức mạnh của nhân dân, “dân là gốc”, là trung tâm, chủ thể; xây dựng “thế trận lòng dân" vững chắc, "yên dân" là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải giữ vững, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo đồng thuận xã hội...

Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật xác định rất rõ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức (trong đó có trách nhiệm nêu gương) cũng như trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát với phương châm kịp thời phát hiện, kiên quyết xử lý nghiêm khắc những vi phạm, làm trong sạch đội ngũ, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước...

Để những nghị quyết, chỉ thị, quy định, phương châm này được thực thi hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều biện pháp, nhưng thiết nghĩ việc quan trọng nhất là cần triệt để vận dụng bài học lịch sử “dựa vào dân” theo đúng phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” mà Đảng ta đã xác định.

Trong đó, cần có những quy chế, quy định cụ thể hơn để phát huy tối đa trách nhiệm và tai mắt của hàng triệu quần chúng nhân dân, kịp thời phát hiện, tố giác những cán bộ, đảng viên có vi phạm, khuyết điểm; đặc biệt là phải có hệ thống tiếp nhận thông tin tố giác thuận tiện, nhanh chóng và cơ chế bảo vệ, khen thưởng xứng đáng cho người tố giác đúng. Cùng với đó, kiên quyết thực hiện việc truy trách nhiệm đến cùng, xử lý thật nghiêm những cán bộ và cơ quan chức năng để xảy ra vụ việc vi phạm theo kiểu “con voi chui lọt lỗ kim” làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới niềm tin của nhân dân vào kỷ cương phép nước; không để các thế lực thù địch, phản động có cớ lợi dụng công kích, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta.

NGƯỜI ANH HÙNG TUỔI BÁCH NIÊN

 NGƯỜI ANH HÙNG TUỔI BÁCH NIÊN

Đầu tháng 12-2023, Hà Nội đón đợt không khí lạnh tăng cường, chúng tôi nhận niềm vui bất ngờ khi Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phú Vỵ-người anh hùng đã hơn 100 tuổi đời, 78 năm tuổi Đảng-nhận lời tiếp chuyện tại nhà riêng ở ngõ 305, tổ 10, phường Ngọc Thụy (Long Biên, Hà Nội).

Lời hứa là vàng

Đúng hẹn-20 giờ, dù được anh Nguyễn Phú Hồng-con trai út của Đại tá, Anh hùng LLVT Nguyễn Phú Vỵ trực tiếp đưa vào nhà nhưng chúng tôi vẫn thấy lo. Lo là bởi giờ này, ở tuổi bách niên, chắc cụ Vỵ đã đi nghỉ ngơi. Thế nhưng khi mở cửa đón khách, cụ Vỵ nói cười vui vẻ: "Đã hứa tiếp các anh là phải giữ lời chứ!"

Và câu chuyện giữa ông cụ với chúng tôi cũng xuyên suốt bằng mạch nguồn của lời hứa như vậy!

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, người thanh niên nông thôn Nguyễn Phú Vỵ quê ở Phúc Xá-bãi giữa sông Hồng (nay là phường Ngọc Thụy, quận Long Biên) xin vào làm công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ. Cùng với nhóm bạn trai làng, Nguyễn Phú Vỵ khai tăng tuổi (từ tuổi thật sinh năm 1924 thành sinh năm 1922) để được nhập ngũ. Mang khí thế hừng hực, sục sôi của Hà Nội mùa đông năm 1946, Nguyễn Phú Vỵ đã Nam tiến cùng đồng đội đánh giặc. Miệt mài đánh trận, ông bị thương và được tổ chức cho ra Bắc điều trị. Trước lúc tạm biệt đồng đội, ông hứa sẽ quay trở lại mặt trận tiếp tục chiến đấu.

Ra Bắc chữa trị vết thương, rồi theo sự phân công của tổ chức, ông tham gia chiến đấu ở hầu khắp vùng Đồng bằng Bắc Bộ với hơn 30 trận đánh lớn, nhỏ. Trong thời gian này, ông hứa với mẹ sẽ có lúc về phép để... cưới vợ. Giữ đúng lời hứa, ông "tranh thủ" về quê xây dựng gia đình với cô thôn nữ Nguyễn Thị Thành-người con gái nết na mà trước đó chưa biết mặt. Vợ chồng chưa quen hơi, nhưng vì lời hứa với đồng đội, ông lại vội trở ra chiến trường và thêm hai lần nữa bị thương ngoài mặt trận.

Nói về chồng, cụ bà Nguyễn Thị Thành xúc động kể: "Phúc đức của tổ tiên để lại nên hòn tên mũi đạn tránh ông ấy. Đã không biết bao nhiêu lần ông lên đường, rồi trở về, rồi lại lên đường... Chiến tranh không thể biết trước điều gì, nhưng ông ấy luôn giữ đúng lời hứa với bố mẹ, với tôi và với cả đồng chí, đồng đội".

Tiếp lời vợ, cụ Nguyễn Phú Vỵ nói như thể giải thích: “Đời quân ngũ có nhiều kỷ niệm, có nhiều lời hứa mà tôi đã thực hiện. Đó không chỉ là sự quyết tâm của riêng mình mà phải chăng, đó còn là sự may mắn, hoặc là sự sắp đặt ngẫu nhiên nào đó của tạo hóa”.

Nắm cơm để lại

Năm 1954, sau Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Đại đoàn Đồng Bằng của Nguyễn Phú Vỵ còn nhiều trận đánh giải phóng tỉnh Nam Định. Trong trận chiến đấu ở Hải Hậu, đồng chí nuôi quân phát cho mỗi cán bộ, chiến sĩ một nắm cơm, là khẩu phần ăn tối. Trên đường cơ động, bộ đội tranh thủ ăn, người nào chưa kịp ăn thì để dành, dùng sau trận đánh. Tiểu đội ông Vỵ có chiến sĩ tên Bảo, người nhỏ con nên Tiểu đội trưởng Nguyễn Phú Vỵ rất thương, hay mang vác giúp các loại vật dụng. Trước khi bước vào trận đánh lần ấy, ông Vỵ ghép hết tư trang của Bảo để mang hộ, chỉ để nắm cơm cho đồng đội mang theo, ăn cho bảo đảm sức khỏe.

- Em chưa đói, để sáng mai ăn cho đỡ nhớ nhà anh ạ-chiến sĩ Bảo nói vậy. Nào ngờ trong trận đánh, người đồng đội đã anh dũng hy sinh khi nắm cơm ấp trên bụng còn hơi ấm. Nắm cơm ấy được đặt làm lễ chung cho các chiến sĩ hy sinh trong trận đánh trên chính quê hương của Bảo.

Theo cụ Nguyễn Phú Vỵ, thời kháng chiến chống thực dân Pháp và cả kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đất nước, Quân đội còn nghèo, khẩu phần ra trận với những nắm cơm gạo tẻ độn cả ngô, khoai là chủ yếu. "Nắm cơm không chỉ quý ở cốt thực mà còn chan chứa nghĩa tình đồng chí, đồng bào. Thực tế, có những lúc đồng đội anh dũng hy sinh thì người còn sống sử dụng súng đạn của đồng đội để tiếp tục đánh giặc, còn cơm thì..."-nói đến đây, nước mắt cụ Vỵ lăn dài trên đôi gò má nhăn nheo. Chúng tôi cảm nhận được ẩn chứa sâu xa trong ký ức những người đã kinh qua trận mạc như cụ Vỵ, để hiểu rằng vì sao trên bàn thờ tổ tiên mỗi gia đình, lúc thắp hương không thể thiếu những bát cơm trắng.

Làng có hai anh hùng

Quê hương cụ Vỵ ở làng Phúc Xá xưa. Cụ Vỵ nhớ lại, nhà cụ lúc ấy nằm ở vị trí bãi giữa sông Hồng. Sau này nước lớn, lũ lụt, sạt lở... nên chuyển vào trong đê thuộc địa giới hành chính phường Ngọc Thụy bây giờ.

Có điều rất thú vị, cũng rất tự hào, trong số những thanh niên làng Phúc Xá tòng quân ra trận đánh giặc, cùng với chàng trai Nguyễn Phú Vỵ còn có người em họ Nguyễn Phú Xuyên Khung, sau này là Đại tá và cũng được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Đại tá Nguyễn Phú Xuyên Khung là người chỉ huy đào hào để bộ đội ta đặt khối bộc phá gần 1.000kg, điểm hỏa trên đồi A1 đêm trước ngày chiến thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong dòng họ Nguyễn Phú, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phú Vỵ là anh con bác ruột và Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phú Xuyên Khung là em con chú.

Hoàn thành nhiệm vụ, hai người anh hùng-hai người lính Cụ Hồ trở về quê hương, tiếp tục cống hiến sức lực, trí tuệ và vui với cuộc sống thường ngày. Các cụ khi khỏe vẫn làm vườn, phụ giúp con cháu, tham gia xây dựng quê hương ngày một tươi đẹp. Được biết, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phú Vỵ là người đầu tiên tham gia thành lập Hội Cựu chiến binh phường Ngọc Thụy. Rất nhiều buổi trò chuyện của người anh hùng đã “tiếp lửa” cho nhiều thế hệ học sinh, thanh niên, giúp các bạn trẻ hiểu thêm, tự hào hơn về lịch sử vẻ vang, hào hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Hơn 100 tuổi đời, 78 năm tuổi Đảng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phú Vỵ đã dành trọn cuộc đời cống hiến cho quê hương, đất nước. Trong gia đình cụ Vỵ, các con, cháu, chắt... đều siêng năng phấn đấu, trưởng thành. Trong đó, con gái của cụ Vỵ là Nguyễn Thị Thanh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và được nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Cháu nội của cụ Vỵ cũng có người đang phục vụ trong Quân đội. Thật tự hào và xin chia sẻ niềm vui với gia đình cụ!

NUÔI DƯỠNG VÀ TRAO TRUYỀN LÒNG YÊU NƯỚC CHO THẾ HỆ TRẺ Cũng như mọi dân tộc trên thế giới, lòng yêu nước luôn có sẵn trong huyết quản mỗi người Việt Nam. Do ở vào một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, đối với người Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm cao đẹp mà còn là một giá trị thiêng liêng và yêu nước không phải chỉ cầm súng để bảo vệ Tổ quốc mà còn phải đem hết sức mình ra để làm cho đất nước trở nên cường thịnh, phồn vinh. Sinh cơ lập nghiệp trên một vùng đất có vị thế địa chính trị hết sức đặc biệt, từ bao đời nay, dân tộc ta luôn phải đối mặt với những thử thách hiểm nghèo. Đất nước tươi đẹp nhưng nằm ở vị trí giao thoa thường xuyên với các nền văn hóa khác. Những lý do ấy đã tạo ra cho chúng ta thách thức ngặt nghèo. Nếu không duy trì và phát huy được sức mạnh truyền thống yêu nước, chúng ta có nguy cơ không giữ được độc lập dân tộc, dễ bị khuất phục và đồng hóa. Do đó, với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước còn là cội nguồn sức mạnh để duy trì sự tồn vong của dân tộc. Bài học thứ nhất là cội nguồn sức mạnh truyền thống yêu nước bắt nguồn từ tình yêu quê hương xứ sở; yêu đồng bào mình và niềm tự hào về văn hóa, về truyền thống đã làm nên những kỳ tích trong lịch sử. Có thể coi những điều này là hằng số bất biến của bất cứ dân tộc nào khi nói tới lòng yêu nước. Tầm mức của lòng yêu nước thường chịu tác động của 3 yếu tố. Trước hết, đó là lòng tin vào tiền đồ của đất nước. Yêu nước không thể có khi người ta thiếu sự tin cậy vào tiền đồ của đất nước. Thứ hai là lòng tin vào những người cầm lái vận mệnh của đất nước. Thứ ba là sự tự tin vào chính mình. 3 yếu tố này thường chịu tác động bởi thăng trầm lịch sử. Có thời điểm, truyền thống yêu nước bị suy giảm, bị mất tác dụng là do tác động không thuận chiều của 3 yếu tố trên, bài học lớn nhất rút ra từ lịch sử là những người cầm lái vận mệnh đất nước phải giữ được mối quan hệ chặt chẽ với toàn dân. Ý chí toàn dân là nhân tố quyết định sức mạnh truyền thống yêu nước. Với 3 lần đánh thắng quân Mông-Nguyên xâm lược, quân và dân nhà Trần đã làm nên những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Thắng lợi đó là minh chứng hùng hồn, khẳng định sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của vương triều Trần cùng tinh thần tự lực, tự cường, ý chí cố kết cộng đồng và quyết tâm bảo vệ non sông, bờ cõi của quân dân Đại Việt. Một câu chuyện người ta hay nhắc tới là cuộc gặp có tính lịch sử vào năm 1995 giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara, những người từng chỉ huy hai bên chiến tuyến, gặp mặt trực tiếp sau khi Việt-Mỹ bình thường hóa quan hệ. Khi đó, ông McNamara phát biểu rằng nếu như người Mỹ hiểu con người và lịch sử Việt Nam như thời điểm năm 1995, chiến tranh Việt Nam có thể đã không xảy ra. Bài học thứ hai là giáo dục truyền thống. Truyền thống đã có trong dòng máu của mỗi người nhưng không phải tự nhiên mà có, nên phải được duy trì, khơi dậy và nuôi dưỡng bền bỉ, thường xuyên. Đại hội XIII của Đảng đã phát một tín hiệu: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”; đồng thời xác định mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đây là khát vọng chính đáng, vì lợi ích của toàn dân, có cơ sở từ những điều kiện và cơ hội chín muồi. Chúng ta khơi dậy cái sẵn có trong huyết quản mỗi người Việt Nam, đó là lòng yêu nước. Yêu nước không chỉ là cầm súng để bảo vệ Tổ quốc mà còn phải làm cho đất nước trở nên cường thịnh, phồn vinh. Làm sao để thế hệ trẻ luôn tự hào, tự tin là điều rất quan trọng. Giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước trong nhà trường cũng vậy, không phải là đưa những bài học khô cứng, bắt học sinh học thuộc mà phải khơi dậy ý thức tự hào, tự tin để người học yêu thích môn Lịch sử, tự thân muốn tìm hiểu. Bắt buộc xưa nay chưa phải là giải pháp hay, mà khơi dậy, khuyến khích mới là cách làm căn cơ, tích cực. Bài học thứ ba là sự gương mẫu của lãnh đạo. Lịch sử đã để lại rất nhiều bài học. An Dương Vương mất nước không phải vì không yêu nước, nhưng rõ ràng ông đã có những ứng xử sai lầm. Ông ưu ái đặc biệt với người con rể nước ngoài. Câu chuyện ấy vừa tạo ra mối nguy trong nội bộ chính quyền vừa khiến người dân không tin ông, thấy ông không còn là người đại diện cho nhân dân. Triều đại nhà Hồ mất nước cũng vì sự phiền hà, lòng dân oán phản. Nhà Nguyễn luôn cảnh giác người dân, dùng những hình phạt để tạo nỗi khiếp sợ quyền uy mà không tạo ra sức mạnh dân tộc nên thua... Đó là những bài học xương máu về việc những người cầm lái vận mệnh đất nước đánh mất lòng tin của nhân dân. Bài học thứ tư là chăm lo sức dân. Đây là nguồn lực lớn nhất của mỗi quốc gia. Năm 1300, tức là cách đây hơn 700 năm, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn-Đức Thánh Trần-trước khi mất hai tháng đã tâu với Vua Trần Anh Tông: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”. Đến nay, bài học này vẫn nguyên giá trị, chăm lo đến đời sống của dân, tạo ra sức mạnh để đảm nhận được các vị trí nền tảng của quốc gia. Nhân dân phải được coi là động lực để chính quyền thực hiện các chính sách của mình, nhưng đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới của các chính sách của Nhà nước. Bài học có ý nghĩa bao trùm khi nói tới duy trì, phát huy truyền thống yêu nước là chúng ta phải giáo dục cho các thế hệ kế tiếp về niềm tự hào và tự tin để nuôi dưỡng lòng yêu nước. Tự tin là một trong những nội dung rất cần cho giáo dục truyền thống hiện nay. Nếu chỉ kể về lịch sử, về những chiến thắng, chiến công, không chừng tuổi trẻ sẽ thấy đó là chuyện của cha ông, không phải chuyện của mình. Khi mỗi người tự tin vào chính mình và rộng ra là tự tin đến vận mệnh dân tộc mình sẽ góp phần dung dưỡng lòng yêu nước. Trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay, việc giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ được thể hiện qua các thang bậc. Thứ nhất, giới trẻ được tiếp cận một khối lượng dữ liệu khổng lồ. Những dữ liệu rất sống động, tràn ngập trên tất cả các phương tiện. Dữ liệu rất quan trọng nhưng nếu không có sự hướng dẫn để phân tích, xử lý, dữ liệu không làm nên điều gì, thậm chí còn gây nhiễu. Lọc dữ liệu và tìm ra thông tin là thang bậc thứ hai và là trách nhiệm của chúng ta. Thứ ba là thu được kiến thức gì từ việc chắt lọc thông tin. Tiếp đến, từ kiến thức phải tiến thêm một bước nữa để kiến thức ngấm vào người, trở thành sự thông tuệ. Cuối cùng là sự cảm nhận, phát triển tiềm năng và hỗ trợ người khác. Việc đó cũng giống như giữa một bó lá, chúng ta cô lại thành viên thuốc bổ cho người uống, chỉ cần một liều lượng vừa phải thôi nhưng nó ngấm và thấm, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Cùng với 3 hằng số bất biến về lòng yêu nước và 3 yếu tố chịu tác động bởi thăng trầm lịch sử, chúng ta cần suy nghĩ làm thế nào để giáo dục thế hệ trẻ không chỉ yêu nước mà còn thấm ngấm những giá trị truyền thống đó để biến thành sức mạnh thời đại. Chúng ta có thể nhìn thấy người ta bỏ hàng chục triệu đồng mua vé vào sân vận động để xem một nhóm nhạc của Hàn Quốc, trong khi có mấy người bỏ tiền để mua cuốn sách lịch sử. Tại sao lại như vậy? Phải chăng, tuổi trẻ hiện vẫn bị hút, bị hướng vào những sở thích cá nhân? Tôi cho rằng điều đó là chính đáng nhưng chưa đúng hướng. Nếu con người chỉ biết chạy theo những ham thích cá nhân thì con người ấy rất khó có thể làm được điều gì lớn hơn ngoài bản thân mình. Không thể mang những hình mẫu, những công thức để áp đặt mà phải tìm giải pháp, cách thức khoa học và phù hợp, hướng người ta tìm tới. Một yêu cầu đang đặt ra là cầu nối giữa dân với lãnh đạo cần được mở rộng, được làm sâu sắc thêm và hiệu quả hơn. Để nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, phải chú ý đến đời sống nhân dân. Khi đời sống của nhân dân được cải thiện, như mảnh đất có màu mỡ thì mới gieo trồng được những hạt giống tích cực.

 NUÔI DƯỠNG VÀ TRAO TRUYỀN LÒNG YÊU NƯỚC CHO THẾ HỆ TRẺ

Cũng như mọi dân tộc trên thế giới, lòng yêu nước luôn có sẵn trong huyết quản mỗi người Việt Nam. Do ở vào một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, đối với người Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm cao đẹp mà còn là một giá trị thiêng liêng và yêu nước không phải chỉ cầm súng để bảo vệ Tổ quốc mà còn phải đem hết sức mình ra để làm cho đất nước trở nên cường thịnh, phồn vinh.

Sinh cơ lập nghiệp trên một vùng đất có vị thế địa chính trị hết sức đặc biệt, từ bao đời nay, dân tộc ta luôn phải đối mặt với những thử thách hiểm nghèo. Đất nước tươi đẹp nhưng nằm ở vị trí giao thoa thường xuyên với các nền văn hóa khác. Những lý do ấy đã tạo ra cho chúng ta thách thức ngặt nghèo. Nếu không duy trì và phát huy được sức mạnh truyền thống yêu nước, chúng ta có nguy cơ không giữ được độc lập dân tộc, dễ bị khuất phục và đồng hóa. Do đó, với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước còn là cội nguồn sức mạnh để duy trì sự tồn vong của dân tộc.

Bài học thứ nhất là cội nguồn sức mạnh truyền thống yêu nước bắt nguồn từ tình yêu quê hương xứ sở; yêu đồng bào mình và niềm tự hào về văn hóa, về truyền thống đã làm nên những kỳ tích trong lịch sử. Có thể coi những điều này là hằng số bất biến của bất cứ dân tộc nào khi nói tới lòng yêu nước. Tầm mức của lòng yêu nước thường chịu tác động của 3 yếu tố. Trước hết, đó là lòng tin vào tiền đồ của đất nước. Yêu nước không thể có khi người ta thiếu sự tin cậy vào tiền đồ của đất nước. Thứ hai là lòng tin vào những người cầm lái vận mệnh của đất nước. Thứ ba là sự tự tin vào chính mình. 3 yếu tố này thường chịu tác động bởi thăng trầm lịch sử.

Có thời điểm, truyền thống yêu nước bị suy giảm, bị mất tác dụng là do tác động không thuận chiều của 3 yếu tố trên, bài học lớn nhất rút ra từ lịch sử là những người cầm lái vận mệnh đất nước phải giữ được mối quan hệ chặt chẽ với toàn dân. Ý chí toàn dân là nhân tố quyết định sức mạnh truyền thống yêu nước. Với 3 lần đánh thắng quân Mông-Nguyên xâm lược, quân và dân nhà Trần đã làm nên những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Thắng lợi đó là minh chứng hùng hồn, khẳng định sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của vương triều Trần cùng tinh thần tự lực, tự cường, ý chí cố kết cộng đồng và quyết tâm bảo vệ non sông, bờ cõi của quân dân Đại Việt.

Một câu chuyện người ta hay nhắc tới là cuộc gặp có tính lịch sử vào năm 1995 giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara, những người từng chỉ huy hai bên chiến tuyến, gặp mặt trực tiếp sau khi Việt-Mỹ bình thường hóa quan hệ. Khi đó, ông McNamara phát biểu rằng nếu như người Mỹ hiểu con người và lịch sử Việt Nam như thời điểm năm 1995, chiến tranh Việt Nam có thể đã không xảy ra.

Bài học thứ hai là giáo dục truyền thống. Truyền thống đã có trong dòng máu của mỗi người nhưng không phải tự nhiên mà có, nên phải được duy trì, khơi dậy và nuôi dưỡng bền bỉ, thường xuyên. Đại hội XIII của Đảng đã phát một tín hiệu: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”; đồng thời xác định mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đây là khát vọng chính đáng, vì lợi ích của toàn dân, có cơ sở từ những điều kiện và cơ hội chín muồi. Chúng ta khơi dậy cái sẵn có trong huyết quản mỗi người Việt Nam, đó là lòng yêu nước. Yêu nước không chỉ là cầm súng để bảo vệ Tổ quốc mà còn phải làm cho đất nước trở nên cường thịnh, phồn vinh. Làm sao để thế hệ trẻ luôn tự hào, tự tin là điều rất quan trọng. Giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước trong nhà trường cũng vậy, không phải là đưa những bài học khô cứng, bắt học sinh học thuộc mà phải khơi dậy ý thức tự hào, tự tin để người học yêu thích môn Lịch sử, tự thân muốn tìm hiểu. Bắt buộc xưa nay chưa phải là giải pháp hay, mà khơi dậy, khuyến khích mới là cách làm căn cơ, tích cực.

Bài học thứ ba là sự gương mẫu của lãnh đạo. Lịch sử đã để lại rất nhiều bài học. An Dương Vương mất nước không phải vì không yêu nước, nhưng rõ ràng ông đã có những ứng xử sai lầm. Ông ưu ái đặc biệt với người con rể nước ngoài. Câu chuyện ấy vừa tạo ra mối nguy trong nội bộ chính quyền vừa khiến người dân không tin ông, thấy ông không còn là người đại diện cho nhân dân. Triều đại nhà Hồ mất nước cũng vì sự phiền hà, lòng dân oán phản. Nhà Nguyễn luôn cảnh giác người dân, dùng những hình phạt để tạo nỗi khiếp sợ quyền uy mà không tạo ra sức mạnh dân tộc nên thua... Đó là những bài học xương máu về việc những người cầm lái vận mệnh đất nước đánh mất lòng tin của nhân dân.

Bài học thứ tư là chăm lo sức dân. Đây là nguồn lực lớn nhất của mỗi quốc gia. Năm 1300, tức là cách đây hơn 700 năm, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn-Đức Thánh Trần-trước khi mất hai tháng đã tâu với Vua Trần Anh Tông: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”. Đến nay, bài học này vẫn nguyên giá trị, chăm lo đến đời sống của dân, tạo ra sức mạnh để đảm nhận được các vị trí nền tảng của quốc gia. Nhân dân phải được coi là động lực để chính quyền thực hiện các chính sách của mình, nhưng đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới của các chính sách của Nhà nước.

Bài học có ý nghĩa bao trùm khi nói tới duy trì, phát huy truyền thống yêu nước là chúng ta phải giáo dục cho các thế hệ kế tiếp về niềm tự hào và tự tin để nuôi dưỡng lòng yêu nước. Tự tin là một trong những nội dung rất cần cho giáo dục truyền thống hiện nay. Nếu chỉ kể về lịch sử, về những chiến thắng, chiến công, không chừng tuổi trẻ sẽ thấy đó là chuyện của cha ông, không phải chuyện của mình. Khi mỗi người tự tin vào chính mình và rộng ra là tự tin đến vận mệnh dân tộc mình sẽ góp phần dung dưỡng lòng yêu nước.

Trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay, việc giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ được thể hiện qua các thang bậc. Thứ nhất, giới trẻ được tiếp cận một khối lượng dữ liệu khổng lồ. Những dữ liệu rất sống động, tràn ngập trên tất cả các phương tiện. Dữ liệu rất quan trọng nhưng nếu không có sự hướng dẫn để phân tích, xử lý, dữ liệu không làm nên điều gì, thậm chí còn gây nhiễu. Lọc dữ liệu và tìm ra thông tin là thang bậc thứ hai và là trách nhiệm của chúng ta. Thứ ba là thu được kiến thức gì từ việc chắt lọc thông tin. Tiếp đến, từ kiến thức phải tiến thêm một bước nữa để kiến thức ngấm vào người, trở thành sự thông tuệ. Cuối cùng là sự cảm nhận, phát triển tiềm năng và hỗ trợ người khác. Việc đó cũng giống như giữa một bó lá, chúng ta cô lại thành viên thuốc bổ cho người uống, chỉ cần một liều lượng vừa phải thôi nhưng nó ngấm và thấm, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay.

Cùng với 3 hằng số bất biến về lòng yêu nước và 3 yếu tố chịu tác động bởi thăng trầm lịch sử, chúng ta cần suy nghĩ làm thế nào để giáo dục thế hệ trẻ không chỉ yêu nước mà còn thấm ngấm những giá trị truyền thống đó để biến thành sức mạnh thời đại. Chúng ta có thể nhìn thấy người ta bỏ hàng chục triệu đồng mua vé vào sân vận động để xem một nhóm nhạc của Hàn Quốc, trong khi có mấy người bỏ tiền để mua cuốn sách lịch sử. Tại sao lại như vậy? Phải chăng, tuổi trẻ hiện vẫn bị hút, bị hướng vào những sở thích cá nhân? Tôi cho rằng điều đó là chính đáng nhưng chưa đúng hướng. Nếu con người chỉ biết chạy theo những ham thích cá nhân thì con người ấy rất khó có thể làm được điều gì lớn hơn ngoài bản thân mình. Không thể mang những hình mẫu, những công thức để áp đặt mà phải tìm giải pháp, cách thức khoa học và phù hợp, hướng người ta tìm tới.

Một yêu cầu đang đặt ra là cầu nối giữa dân với lãnh đạo cần được mở rộng, được làm sâu sắc thêm và hiệu quả hơn. Để nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, phải chú ý đến đời sống nhân dân. Khi đời sống của nhân dân được cải thiện, như mảnh đất có màu mỡ thì mới gieo trồng được những hạt giống tích cực.

KHÚC TRÁNG CA NHỮNG NGƯỜI LÍNH GIỮ BIỂN

 


KHÚC TRÁNG CA NHỮNG NGƯỜI LÍNH GIỮ BIỂN

Trên hành trình mang mùa xuân đến với Nhà giàn DK1, các tàu trực trên biển thuộc Vùng 2 Hải quân, tôi được chứng kiến những người lính hải quân công tác, sinh hoạt, học tập. Giữa trùng dương mênh mông, họ mạnh mẽ, can trường, hiên ngang, dạt dào sức sống. Họ như những cột mốc chủ quyền góp phần tạo nên dáng hình đất nước từ phía khơi xa.

“Biển trời bao la, đẹp như gấm hoa...”. Câu hát ấy thật ngọt ngào và lắng sâu khi ngợi ca về Tổ quốc. Góp phần dệt nên những “gấm hoa” ấy là những con người sẵn sàng hy sinh để “non sông nghìn thuở vững âu vàng”. Dịp ra thăm các nhà giàn DK1, tôi cùng đồng đội được nghe, được hát khúc tráng ca tri ân những người lính giữ biển.

Những ngày đầu xuân mới, nắng ấm trải dài trên bờ biển biếc xanh. Cầu cảng Hải đoàn 129 (Quân chủng Hải quân) nhộn nhịp bóng người. Họ là những cán bộ, chiến sĩ hải quân chuẩn bị cho hải trình ra khơi làm nhiệm vụ. Trong phút giây luyến lưu có cái bắt tay thật chặt, nồng ấm của đồng đội, có cái ôm hôn thắm thiết của người thân. Tôi vui bước cùng người chiến sĩ, hân hoan xen chút hồi hộp lần đầu tiên với hành trình ra biển lớn.

Sóng vỗ thân tàu Trường Sa 04 (Hải đội 1, Lữ đoàn 125, Vùng 2 Hải quân). Tàu kéo 3 hồi còi rộn rã rồi rẽ sóng để lại luồng nước tung bọt trắng xóa. Mênh mông biển biếc xanh. Trong ào ạt tiếng sóng, tiếng gió, dường như nghe đâu đây lời người xưa vọng về. Thuở mở cõi, những đoàn hùng binh đã cưỡi thuyền mộc, vượt ngàn khơi ra với đảo xa. Khi can qua, những con tàu không số lặng thầm và bí hiểm làm nên những kỳ tích trên sóng biển quê hương. Biển mặn ngàn năm vẫn vậy, mênh mang, hoang hoải.

Thiếu tá Nguyễn Duy Tuyên, Trợ lý Tuyên huấn, Phòng Chính trị, Vùng 2 Hải quân, có vóc người chắc đậm, da nâu đằm, miệng cười rạng rỡ thiện lành. Những tháng năm gắn bó với các con tàu đã khiến người cán bộ chính trị ấy vững vàng, am tường như một thủy thủ. Giản dị và chân thành, những chuyện anh kể như lời tâm sự với biển. Đứng trên mặt boong tàu, tôi khẽ thốt lên:

- Biển mênh mang sẽ xóa nhòa tất cả phải không đồng chí?

Lặng hồi lâu, anh diễn cảm:

- Không! Biển nặng tình nên ngậm mặn dưới đáy sâu. Bao lớp người đã qua lưu dấu tên mình trên biển biếc. Và biển ôm trọn nỗi đau vào lòng để nước muôn đời mặn chát, xót thương.

Tàu rùng mình, gối đầu lên sóng. Khi thì sóng đội lên cao 4-5m, lúc lại nhún xuống sâu hoắm khiến người ngồi trên mặt sàn phải nẩy lên, chao đảo, liêng biêng. Cái điệp khúc đó cứ lặp đi lặp lại hàng ngàn lần. Hơn 200 hải lý nhọc nhằn, tàu thả neo gần Nhà giàn DK1/15 Phúc Nguyên. Sóng vươn cao ngạo nghễ như muốn thách thức. Tàu đứng đó lựa sóng khẽ chao phải rồi sang trái như cái lắc đầu mệt mỏi. Trên tàu, những đôi mắt nhìn biển trân trân. Gió ào ào như muốn bứt người xuống biển. Sóng bạc đầu trắng xóa gầm gừ, gào thét, phi nước kiệu phóng vào thân tàu.

Mặc sóng, kệ gió, các thành viên trong đoàn công tác khẩn trương làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ nằm lại giữa biển khơi. Lễ vật đủ đầy, khói hương ngan ngát. Tàu gióng 3 hồi còi. Cờ Tổ quốc, cờ hải quân được kéo lên trong tiếng nhạc "Hồn tử sĩ" trầm hùng. Trong lời tưởng niệm, Đại tá Trần Hồng Hải, Phó chính ủy Vùng 2 Hải quân tưởng nhớ, tri ân các liệt sĩ. Mỗi sự kiện, mỗi tên người được nhắc lại bi tráng.

Cách đây hơn 30 năm, Nhà giàn DK1/3 phải gồng mình đương đầu với cơn bão số 10 có sức giật trên cấp 12 đổ bộ vào khu vực Nam Biển Đông đêm 4, rạng sáng 5-12-1990. Dưới sự chỉ huy của Trung úy Bùi Xuân Bổng, Chỉ huy trưởng và Thượng úy Trần Hữu Quảng, Phó chỉ huy trưởng chính trị, bộ đội nhà giàn đã ra sức chống chọi với bão tố.

Ông Bùi Xuân Bổng (khi về hưu mang quân hàm Trung tá, nguyên Chỉ huy trưởng Nhà giàn DK1/3; hiện đang ở phường 11, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) kể lại: “Giữa đêm đen, cuồng phong ập xuống. Thượng úy Trần Hữu Quảng đã nêu cao vai trò người bí thư chi bộ động viên đồng đội sát cánh bên nhau. Trong cận kề giữa sự sống và cái chết, anh đã nhường chiếc phao cá nhân và miếng lương khô cuối cùng của mình cho người chiến sĩ. Nhà giàn bị quật đổ, 8 cán bộ, chiến sĩ bị cuốn xuống biển. Giữa trận cuồng phong, Thượng úy Trần Hữu Quảng; Thượng úy QNCN Trần Văn Là, quân y; chiến sĩ Hồ Văn Hiền, nhân viên cơ điện đã anh dũng hy sinh”. Sau này công tác ở các nhà giàn khác nhau cho đến khi nghỉ hưu (năm 2019), ông Bổng vẫn không thể nào quên những đồng đội đã ra đi trong cái đêm khắc nghiệt, kinh hoàng ấy.

Thật là linh thiêng! Cứ ngỡ chúng tôi không thể đứng vững trên mặt hầm hàng thì biển bỗng thôi dậy sóng khi nghe lời khấn nguyện. Trời cũng ngưng những hạt mưa rơi. Phía trước là Nhà giàn DK1/15 Phúc Nguyên vững chãi, sừng sững giữa biển. Hơn 15 năm trước, nơi đây, Nhà giàn DK1/6 đã phải gồng mình chống lại trận cuồng phong. Mùa biển động năm 1998, cơn bão số 8 tràn về kéo theo lốc xoáy. Gió vươn cao trùm lấy Nhà giàn DK1/6. Bấy nhiêu khung sắt, giá đỡ bị rung lắc dữ dội. Nhà giàn chao đảo nhưng bộ đội vẫn kiên trì bám trụ, giữ vững thông tin liên lạc. Bão tố thì hung tàn mà sức người thì có hạn, nhà giàn bị đổ. Có 9 đồng chí bị hất tung xuống biển. Lực lượng cứu hộ đã làm hết sức nhưng chỉ cứu được 6 đồng chí. Còn 3 đồng chí gồm: Đại úy Vũ Quang Chương, Chỉ huy trưởng; Chuẩn úy QNCN Lê Đức Hồng, Chuẩn úy QNCN Nguyễn Văn An đã hòa mình mãi mãi vào sóng nước biển khơi.

Trong giờ phút hiểm nguy, Chuẩn úy QNCN Lê Đức Hồng cố gắng bám máy đến hơi thở cuối cùng để giữ vững thông tin liên lạc với sở chỉ huy. Khi nhà giàn bị đổ, anh chỉ kịp gửi lời chào “vĩnh biệt đất liền” rồi ra đi giữa biển khơi. Còn Chuẩn úy QNCN Nguyễn Văn An ra đi để lại nỗi đau cho người vợ trẻ và cậu con trai nhỏ mới chào đời chưa kịp nhìn mặt bố. 26 năm sau, có dịp liên lạc với anh Nguyễn Tiến Anh (con trai đồng chí Nguyễn Văn An, quê ở Ninh Bình), tôi được nghe những lời tâm sự chân thành: “Dẫu chưa một lần được gặp bố nhưng nghe chuyện kể lại, em vô cùng xúc động và tự hào về bố. Mỗi lần ra biển, em tưởng bố vẫn đứng đó, hiên ngang, vững chãi trên nhà giàn dõi theo từng bước em đi”. 

Trong khói hương ngan ngát, Đại tá Trần Hồng Hải tiếp tục đọc lời khấn nguyện các liệt sĩ: Phạm Tảo, Lê Tiến Cường, Tạ Ngọc Tú, Hồ Văn Hiền, Dương Văn Bắc. Các anh đã dũng cảm hy sinh thân mình khi thực hiện nhiệm vụ mà không chút do dự. Xin tạc lòng ghi nhớ công ơn cán bộ, chiến sĩ nhà giàn đã hóa thân vào sóng nước đại dương. Gương hy sinh của các đồng chí trở thành biểu tượng cao đẹp, tô thắm phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ hải quân. Giữa trập trùng biển nhớ, lời tưởng niệm bỗng vang lên trầm hùng, thiết tha: "Ngỡ ngưng bom đạn chiến trường/ Mà sao sinh tử vẫn thường xảy ra/ Trong cơn hồng thủy phong ba/ DK1 bản hùng ca lưu đời"...

Tôi đứng bên mạn tàu nhẹ nhàng thả những bông cúc vàng theo sóng ra xa. Đứng kế bên, Thiếu tá Nguyễn Duy Tuyên khẽ trao một cánh hạc giấy trắng. Hàng ngàn con hạc trắng được gấp bởi đôi bàn tay các em học sinh tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Long Khánh (Đồng Nai) gửi đoàn công tác để tưởng niệm các liệt sĩ. Đó là lời tri ân của thế hệ trẻ hôm nay đối với lớp người đi trước đã hy sinh vì Tổ quốc. Gió cuốn hạc giấy ra xa, hòa vào biển khơi, đem theo lời tâm tình của quê hương, nhẹ ru những người con nằm lại giữa trùng dương sóng vỗ: "Hương trầm quyện khói tỏa quanh/ Vòng hoa đất mẹ dệt thành huân chương".

Cả đoàn thủy thủ và khách trên tàu đều xúc động, tưởng nhớ tri ân các liệt sĩ. Đã có những giọt nước mắt khẽ rơi hòa vào muối biển mặn mòi. Thế hệ hôm nay sẽ không bao giờ quên các anh-những con người bất tử trong lòng dân tộc. Chúng tôi sẽ mãi hát khúc tráng ca về các anh. Có mặt trong đoàn tưởng niệm, Thượng úy Nguyễn Mạnh Tuấn, Chính trị viên tàu Trường Sa 04 tâm sự: “Mỗi lần ra với nhà giàn hay thực hiện nhiệm vụ ngoài biển, ngang qua những nơi cán bộ, chiến sĩ hải quân nằm lại, chúng tôi đều thắp nén hương thơm tưởng nhớ công ơn các liệt sĩ, cầu mong hải lộ bình an, mọi sự hanh thông, thuận lợi”.

Giữa ào ạt sóng vỗ, các liệt sĩ vẫn được những người lính biển gọi tên. Tổ quốc ghi công, Biển Đông không bao giờ xóa nhòa. Linh hồn các anh neo lại nơi đây để chở che cho những con tàu vươn khơi mạnh mẽ, để các nhà giàn luôn vững chãi giữa trùng khơi.